(Bấm vào tiêu đề để xem toàn bài)
Ở Sài Gòn một người Mỹ khác, cũng đang trăn trở tại biệt thự của ông ta ở phố Trần Quý Cáp. Tướng Uyliêm C.Oetmolen liên tiếp nhận những báo cáo qua điện thoại về những cuộc tiến công mạnh mẽ của Cộng sản khắp miền Nam.
Quân giải phóng mặt trận Huế - 1968 |
Biển đồng ghi tên những lính Mỹ chết trong Sứ quán |
Ông ta đã lường trước một cuộc tấn công của Cộng sản, đặc biệt là Khe sanh và ở những nơi khác thuộc Bắc Trung phần, mà không thể lường đến một cái gì lại rộng lớn và được phối hợp tài tình đến thế.
Trong những giở đầu, ông còn có phần hoài nghi. Hầu như toàn bộ các thành phố khắp miền Nam đều bị tấn công trừ trong hay ngoài và chẳng ai biết Cộng sản còn có bao nhiêu lực lượng dự trữ chưa tung ra. Tân Sơn Nhất, nơi tổng hành dinh của tướng Oet đóng, bị 3 tiểu đoàn cộng sản tấn công. Hơn nữa tình hình về phía lực lượng đồng minh lại hết sức mù mờ. Ở nhiều nơi, những hành động của quân đội Cộng hoà và dân chúng ra sao cũng chẳng rõ, và chỉ mới có những báo cáo ban đầu của các tiểu đoàn, trung đoàn và những tổ chiến đấu đặc biệc của quân Mỹ về việc họ triển khai những vị trí chiến đấu mới khắp miền Nam đang bốc lửa.
Trong những giở đầu, ông còn có phần hoài nghi. Hầu như toàn bộ các thành phố khắp miền Nam đều bị tấn công trừ trong hay ngoài và chẳng ai biết Cộng sản còn có bao nhiêu lực lượng dự trữ chưa tung ra. Tân Sơn Nhất, nơi tổng hành dinh của tướng Oet đóng, bị 3 tiểu đoàn cộng sản tấn công. Hơn nữa tình hình về phía lực lượng đồng minh lại hết sức mù mờ. Ở nhiều nơi, những hành động của quân đội Cộng hoà và dân chúng ra sao cũng chẳng rõ, và chỉ mới có những báo cáo ban đầu của các tiểu đoàn, trung đoàn và những tổ chiến đấu đặc biệc của quân Mỹ về việc họ triển khai những vị trí chiến đấu mới khắp miền Nam đang bốc lửa.
Từ bối cảnh đó cuộc đột kích vào sứ quán có vẻ là một cuộc quấy rối hơn là sự đe doạ, một chuyện nhỏ nhưng sẽ vượt khỏi tầm cỡ của nó do sự tập trung của báo chí Mỹ và sự quan tâm của chính phủ Mỹ. Họ không hề sợ sứ quán bị thất thủ mà sớm muộn họ cũng sẽ thắng trong trận chiến mà kẻ địch chỉ có khoảng 1 trung đội.
Sự trấn an có tính chất thực dụng nhưng cũng có đủ tác dựng tốt đối với những trận đánh khác trong các cuộc chiến tranh khác, nhưng quả là không đáp ứng một cách hết sức bi thảm trong lúc này. Xem ra toàn thế giới đang hướng về sứ quán và phán xét hành động này như thể toàn bộ cuộc chiến tranh sẽ được quyết định do kết quả của nó. Mỗi phút trôi qua trong sự bắn khoăn của công chúng, chiếc đồng hồ chạy tích tắc cho đến giờ phát tin buổi tối của vô tuyến truyền hình Mỹ và thời hạn cắt bài của những tờ báo ra sáng hôm sau. Vấn đề thời gian, vấn đề ám ảnh Hoa Kỳ suốt thời kỳ can thiệp vào Việt Nam, bỗng xuất hiện dưới hình thức hết sức gay gắt và phi lý của nó. Các nhà cầm quyền dân sự không đòi hỏi chiến thắng tại sứ quán mà họ cần có chiến thắng đó tức thời. Ở thời buổi mà truyền thông đại chúng nhanh như điện chớp, việc đo lường chiến thắng quân sự không chỉ là nó ra sao mà còn vào lúc nào.
Vào 4 giờ sáng, giờ Sài Gòn, đại sứ Bânkơ, qua một trợ tá, yêu cầu viên tổng trưởng cảnh sát Nam Việt Nam, thiếu tướng Nguyễn Văn Luân, cho quân tiếp viện toà đại sứ. Câu trả lời từ đồn cảnh sát quận 1, ở cách sứ quán Mỹ dãy nhà. Viên sĩ quan chỉ huy từ chối không hành động. Anh ta bảo rằng trong đêm tối, chẳng ai có thể phân biệt nổi bạn và thù và quân ông ta sẽ bị kẹt giữa 2 làn đạn. Nếu người Mỹ có thể đến đồn ông ta đưa cảnh sát của ông ta đến sứ quán và chỉ cho họ đâu là Việt Cộng, thì lại là chuyện khác. Một lính thuỷ đánh bộ và một cảnh sát quân sự Mỹ được cử đến đồn, nhưng người Việt đã không cho họ vượt qua các chướng ngại vật.
Vào 4 giờ 20 phút, Conhun tham tán chính trị toà đại sứ gọi điện thoại thúc tướng Oet về việt tổ chức một lực lượng phản công và di tản những người bị thương trong sứ quan. Tướng Oét đã ra lênh cho tiểu đoàn quân cảnh số 716, đơn vị chiến đấu lớn nhất của quân Mỹ trong thành phố, phải quét sạch quân địch khỏi sứ quán và coi đó là nhiệm vụ "ưu tiên số 1".
Sở chỉ huy quân cảnh đáp lại ứng bằng yêu cầu có xe thiết giáp và máy bay trực thăng để dùng vào việc chiếm lại sứ quán. Những phương tiện quân sự hạng nặng như vậy chỉ có thể điều từ các đơn vị nằm ngoài thành phố. Trong lúc đó, lực lượng quân cảnh đưa thêm quân đến sứ quán. Viên trung uý quân cảnh chỉ huy ở đây đã nghiên cứu tình thế và không chịu tiến đánh vào sứ quán trong đêm tối. Mọi cánh cổng đều khoá chốt và và lỗ thủng tại bức tường sứ quán thì những người Mỹ ở phía ngoài chưa lần ra được chỗ nào. "Việt cộng thì ở trong sứ quan, họ không đi đâu cả. Chẳng ai có thể lọt vào và chẳng ai có thể lỏta ngoài", một lính quân cảnh đã báo cáo như vậy qua bộ đàm. Viên trung uý bảo rằng cứ phải đợi đến khi trời sáng bởi vì chúng ta đã vây hãm chúng lại rồi. Qua giọng nói anh ta, chẳng tỏ ra chút gì khẩn cấp.
Trong khu sứ quan, 2 bên vẫn tiếp tục nhiệm vụ theo hết khả năng của họ mà sẵn sàng chiến đấu đến phút cuối cùng. Các chiến binh Việt cộng chiếm lĩnh các vị trí trong hay sau bồn hoa và các nơi khác trong khu vườn để bắn trở lại trước một hoả lực của đối phương ngày càng tăng từ các mái nhà quanh sứ quán. Đại tá Giacôpxân, người từng trải bao chiến trận, đứng ngắm những người lính Việt cộng suốt cả đêm từ cửa sổ biệt thự của ông nằm sau sứ quán. Ông có ấn tượng rất sâu sắc với sự dũng cảm phi thường của họ trong chiến đấu. Chẳng một ai trong số họ tỏ ra một chút nao núng hay chịu đầu hàng.
Những nguời Mỹ trong khu nhà sứ quán lại nằm ngoài vòng chiến một cách kỳ lạ, trừ khi một quả rocket hay những viên đạn bắn vào toà sứ quan. Họ không nhìn thấy gì về cuộc chiến đấu đang diễn ra xung quanh nhà và đôi tai họ chỉ biết được rằng cuộc chiến đang hết sức dữ dội. Còn họ thì hầu như bất lực, chỉ có việc chờ đợi trong nỗi lo âu căng thẳng và thất vọng trong cảnh cùng đường.
Sự trấn an có tính chất thực dụng nhưng cũng có đủ tác dựng tốt đối với những trận đánh khác trong các cuộc chiến tranh khác, nhưng quả là không đáp ứng một cách hết sức bi thảm trong lúc này. Xem ra toàn thế giới đang hướng về sứ quán và phán xét hành động này như thể toàn bộ cuộc chiến tranh sẽ được quyết định do kết quả của nó. Mỗi phút trôi qua trong sự bắn khoăn của công chúng, chiếc đồng hồ chạy tích tắc cho đến giờ phát tin buổi tối của vô tuyến truyền hình Mỹ và thời hạn cắt bài của những tờ báo ra sáng hôm sau. Vấn đề thời gian, vấn đề ám ảnh Hoa Kỳ suốt thời kỳ can thiệp vào Việt Nam, bỗng xuất hiện dưới hình thức hết sức gay gắt và phi lý của nó. Các nhà cầm quyền dân sự không đòi hỏi chiến thắng tại sứ quán mà họ cần có chiến thắng đó tức thời. Ở thời buổi mà truyền thông đại chúng nhanh như điện chớp, việc đo lường chiến thắng quân sự không chỉ là nó ra sao mà còn vào lúc nào.
Vào 4 giờ sáng, giờ Sài Gòn, đại sứ Bânkơ, qua một trợ tá, yêu cầu viên tổng trưởng cảnh sát Nam Việt Nam, thiếu tướng Nguyễn Văn Luân, cho quân tiếp viện toà đại sứ. Câu trả lời từ đồn cảnh sát quận 1, ở cách sứ quán Mỹ dãy nhà. Viên sĩ quan chỉ huy từ chối không hành động. Anh ta bảo rằng trong đêm tối, chẳng ai có thể phân biệt nổi bạn và thù và quân ông ta sẽ bị kẹt giữa 2 làn đạn. Nếu người Mỹ có thể đến đồn ông ta đưa cảnh sát của ông ta đến sứ quán và chỉ cho họ đâu là Việt Cộng, thì lại là chuyện khác. Một lính thuỷ đánh bộ và một cảnh sát quân sự Mỹ được cử đến đồn, nhưng người Việt đã không cho họ vượt qua các chướng ngại vật.
Vào 4 giờ 20 phút, Conhun tham tán chính trị toà đại sứ gọi điện thoại thúc tướng Oet về việt tổ chức một lực lượng phản công và di tản những người bị thương trong sứ quan. Tướng Oét đã ra lênh cho tiểu đoàn quân cảnh số 716, đơn vị chiến đấu lớn nhất của quân Mỹ trong thành phố, phải quét sạch quân địch khỏi sứ quán và coi đó là nhiệm vụ "ưu tiên số 1".
Sở chỉ huy quân cảnh đáp lại ứng bằng yêu cầu có xe thiết giáp và máy bay trực thăng để dùng vào việc chiếm lại sứ quán. Những phương tiện quân sự hạng nặng như vậy chỉ có thể điều từ các đơn vị nằm ngoài thành phố. Trong lúc đó, lực lượng quân cảnh đưa thêm quân đến sứ quán. Viên trung uý quân cảnh chỉ huy ở đây đã nghiên cứu tình thế và không chịu tiến đánh vào sứ quán trong đêm tối. Mọi cánh cổng đều khoá chốt và và lỗ thủng tại bức tường sứ quán thì những người Mỹ ở phía ngoài chưa lần ra được chỗ nào. "Việt cộng thì ở trong sứ quan, họ không đi đâu cả. Chẳng ai có thể lọt vào và chẳng ai có thể lỏta ngoài", một lính quân cảnh đã báo cáo như vậy qua bộ đàm. Viên trung uý bảo rằng cứ phải đợi đến khi trời sáng bởi vì chúng ta đã vây hãm chúng lại rồi. Qua giọng nói anh ta, chẳng tỏ ra chút gì khẩn cấp.
Trong khu sứ quan, 2 bên vẫn tiếp tục nhiệm vụ theo hết khả năng của họ mà sẵn sàng chiến đấu đến phút cuối cùng. Các chiến binh Việt cộng chiếm lĩnh các vị trí trong hay sau bồn hoa và các nơi khác trong khu vườn để bắn trở lại trước một hoả lực của đối phương ngày càng tăng từ các mái nhà quanh sứ quán. Đại tá Giacôpxân, người từng trải bao chiến trận, đứng ngắm những người lính Việt cộng suốt cả đêm từ cửa sổ biệt thự của ông nằm sau sứ quán. Ông có ấn tượng rất sâu sắc với sự dũng cảm phi thường của họ trong chiến đấu. Chẳng một ai trong số họ tỏ ra một chút nao núng hay chịu đầu hàng.
Những nguời Mỹ trong khu nhà sứ quán lại nằm ngoài vòng chiến một cách kỳ lạ, trừ khi một quả rocket hay những viên đạn bắn vào toà sứ quan. Họ không nhìn thấy gì về cuộc chiến đấu đang diễn ra xung quanh nhà và đôi tai họ chỉ biết được rằng cuộc chiến đang hết sức dữ dội. Còn họ thì hầu như bất lực, chỉ có việc chờ đợi trong nỗi lo âu căng thẳng và thất vọng trong cảnh cùng đường.
Đánh nhau trong đêm tối
Mặt khác, tiếng nói của họ lại đi khắp thành phố và trên thế giới qua dây điện, và những máy điện thoại thì liên tục réo chuông. Oen và Gripfin trong phòng mật mã trên lầu 4 đã nhận điện thoại suốt đêm từ phòng theo dõi tình hình cuả Nhà trắng và từ trung tâm theo dõi hoạt động của Bộ ngoại giao ở Oasinhtơn, cách nơi này ½ vòng trái đất ; từ vị tướng lính thuỷ đánh bộ ở Đà Nẵng cách đấy 500 dặm ; từ sở chỉ quân sự Mỹ tại sân bay Tân Sơn Nhất ; từ nhà của các viên tham tán sứ quán ; và cả từ một nhân viên viện trợ nước ngoài gọi điện thoại để tìm hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Thật giống như phòng gọi điện thoại của chiếc tầu Titanic khi chiếc tầu đang chìm dần xuống biển.
Trung sĩ Harpo, người hầu như suốt đêm nằm lom khom trên hành lang để chờ Việt cộng xông vào cứ lao tời máy điện thoại mỗi lần nó reo lên vì sợ tiếng chuông báo động cho Việt cộng ở bên ngoài. Một cú điện thoại vào nửa đêm là của đại uý lính thuỷ đánh bộ Saclơ Xamxân, trợ tá của tướng Oét, ông này đang kiểm tra tình hình để báo cáo lại với viên tư lệnh quân lực Mỹ.
- Có chuyện gì thế Trung uý? Ông ta hỏi vì thấy giọng nói kích động của bên kia đầu dây.
- Việt cộng đang ở ngoài cửa đấy, tôi nói cho ông rõ.
- Anh không sợ? Hay không việc gì chứ? Xamxân hỏi và nghĩ bụng Harpo có khi phóng đại sự việc lên.
- Tôi thề là không đâu.
Một chiếc trực thăng quân sự Mỹ mang một tốp lính từ sư đoàn Không vận 101 mưu toan đổ quân xuống nóc nhà sứ quán vào lúc 5 giờ sáng, nhưng đã thu hút một loạt hoả lực của Việt cộng bắn lên từ mặt đất, chiếc máy bay vội vàng qua trở về.
Tại sở chỉ huy Long Bình, nằm cách thành phố 15 dặm, thiếu tướng Phrêđêrich Wâyan, tư lệnh các lực lượng Mỹ vùng Sài Gòn biết tin là chiếc trực thăng này qua trở lại. Thấy rằng không cần thiết phải đổ quân trong đêm tối đầy nguy hiểm, ông ra lệnh cho lực lượng tiến công chờ cho đến khi có thời cơ thuận lợi.
Vào khoảng 6 giờ 15 phút, một chiếc trực thăng cán gáo đã có thể đỗ xuống nóc sứ quán. Nó để lại đó 3 hòm đạn súng máy M16 và cất cánh mang theo Zahuaranich, trung sĩ Xôtơ và Fisơ.Những người bảo vệ sứ quán ở trong tòa nhà thì được trang bị bằng đủ loại súng lục, shortgun và những vũ khí nhẹ khác. Vì không ai có trong tay một khẩu M16 nào nên những hòm đạn do trực thăng tiếp viện đã nằm vô dụng trên nóc nhà.
Thế giới bên ngoài lệ thuộc vào những phóng viên đang tụ tập cách đó một dãy nhà, các nhà báo tìm mọi cách để đưa tin bằng những gì họ nghe, họ nhìn và họ hỏi.
Bari Zothiân, người phát ngôn của báo chí Mỹ, cũng chẳng biết là V.C đã đột nhập vào tóa sứ quán chưa. Cả những người ở lầu 4 sứ quán cũng thế. Một trung sĩ quân cảnh ngưới quá nặng nề và quá hoảng hốt đã nói với nhóm báo chí bằng một giọng kích động "họ đang trong tòa nhà".
Pitơ Anet của hãng AP là một phóng viên chiến tranh kỳ cựu đã nhận giải Pulitgiơ về những bài vở viết về cuộc chiến tranh Việt Nam, cứ chạy đi chạy lại ngoài bức tường sứ quán đến chiếc máy điện thoại cách đó một dãy nhà. Anh ta đang liên tục đưa tin cho văn phòng AP tại ngôi nhà Eden. Dựa vào tài liệu Anet thu thập tại nơi xẩy ra chiến sự, hãng AP đã phát ra tin quan trọng đầu tiên rằng V.C đang trong tòa nhà sứ quán. Bản tin viết:
"Việt cộng tấn công Sài Gòn hôm thứ tư và chiếm một phần sứ quán Mỹ. Lực lượng quân cảnh Mỹ tìm cách tràn vào sứ quán khi trời bắt đầu hửng sáng, nhưng bị đẩy lui trước một hỏa lực rất mạnh từ tòa sứ quán bắn ra..."
Ở Niu Yoóc, đài truyền hình NBA đã đưa tin về sự kiện thảm bại này cho khoảng 14 triệu khán giả Mỹ.
"Việt cộng đã chiếm một phần sứ quán Mỹ ở Sài Gòn sáng sớm thứ Tư, theo giờ Việt Nam. Những người bắn tỉa đang ở trong các tòa nhà, trên các mái nhà gần sứ quán và đang bắn vào các nhân viên Mỹ trong khu sứ quán.
Hai mươi lính Việt cộng cảm tử được tin là đang chiếm giữ tầng một của tòa đại sứ.
Cuộc tấn công vào sứ quán và những căn cứ chủ chốt ở Sài Gòn, Tân Sơn Nhất và Biên Hòa, là đỉnh cao của cuộc tấn công lớn nhất và được phối hợp ở trình độ cao nhất của đối phương trong cuộc chiến này. Không có tin tức gì về thương vong của phía đồng minh ở Sài Gòn, nhưng người ta cho là cao.
Các cuộc tấn công xẩy ra khi hàng ngàn nhân viên dân sự đang đón mừng năm mới theo âm lịch và cào những lúc mà người ta không thể phân biệt được đâu là tiếng nổ của lựu pháo và các loại súng nhỏ với tiếng pháo mà những người vui Tết đã đốt lên..."
Ở Oasinhton, các quan chức cao cấp của chính phủ ngồi trước màn ảnh tivi với bộ mặt đầy lo lắng. Họ đang theo dõi buổi phát tin tối, vốn là nguồn thông tin hàng đầu quyết định thái độ của hầu hết dân Mỹ.Vào lúc 6 giờ 40 phút chiều ở Oasinhton, Philip Habib, người điều hành công việc về Việt Nam của Bộ ngoại giao đã gọi điện khẩn cho trụ sở tạm thời của chỉ huy sứ quán ở Sài Gòn. Tham tán chính trị của sứ quán Conhun nói chuyện bằng điện thoại với trung tâm các hoạt động chiến đấu của bộ chỉ huy quân sự Mỹ, nơi mà lúc này tin tức dồn dập đưa đến từ các trận đánh lớn ở vùng ngoại vi trung này tại sân bay Tân Sơn Nhất và khắp miền Nam. Conhun báo tin cho các sĩ quan phụ trách các hoạt động quan sự và những người này hẳn thể tin được vào cái tin rằng "mối quan tâm chính" của Oasinhton là lấy lại sứ quán Mỹ ở trung tâm Sài Gòn. Họ trả lời có phần nào dè dặt rằng bức tường cao bảo vệ sứ quán là một "vấn đề chiến thuật quan trọng" - vì Việt cộng thì ở bên trong còn lực lượng cứu viện của Mỹ lại ở bên ngoài. Tuy nhiên, Conhun được thông báo là một lực lượng cứu viện Mỹ đang xuất phát.
Không thỏa mãn với trả lời đó, Conhun điện thoại cho tướng Oet. Ông nhấn mạnh: Oasinhton quan tâm đến sứ quán, tướng Oet trấn an ông ta rằng lính trở bằng trực thăng sẽ đổ bộ xuống sứ quan ngay thôi.Khi trời hửng sáng, sĩ quan an ninh Rôbớt Fơrây loạng quạng vấp phải vật gì nằm trên vỉa hè đằng trước sứ quán. Đó là đống gạch vụn mà công binh Việt cộng đã phá bức tường thành lỗ thủng để chui vào trước đây 4 giờ. Lần đầu tiên họ hiểu ra Việt cộng đã vào được khu sứ quán bằng cách nào trong khi quân cứu viện Mỹ lại bị khóa chặt ở ngoài không vào được. Fơrây thận trọng chui qua lỗ tường, vào trong, anh ta thấy một lính Việt cộng bị thương nặng đang cố gượng ngồi lên trên bãi cỏ và lăm lăm quả lựu đạn trong tay sẵn sàng ném ra. Fơrây nhắm mục tiêu người lính trong đường ngắm của khẩu súng trong khi một tia chớp màu da cam loé lên trước mặt anh ta và cảm thấy xỉu đi trước sức dội của vụ nổ. Người lính biệt động Cộng sản đã tháo chốt quả lựu đạn, nhưng không đủ sức để ném nó đi.
Cổng trước sứ quán bị phá hỏng nghiêm trọng. Sau nhiều giờ tìm cách phá công, lính quân cảnh đã bắn vỡ khóa cổng và lấy xe jeep húc mở tung cổng ra. Họ lao vào khu sứ quán theo sau là tốp ký giả. Xác người nằm ngổn ngang khắp sân. Hầu như tất cả Việt cộng đều đã chết, đang hấp hối hay đã trốn thoát.
Trung sĩ Harpo, người hầu như suốt đêm nằm lom khom trên hành lang để chờ Việt cộng xông vào cứ lao tời máy điện thoại mỗi lần nó reo lên vì sợ tiếng chuông báo động cho Việt cộng ở bên ngoài. Một cú điện thoại vào nửa đêm là của đại uý lính thuỷ đánh bộ Saclơ Xamxân, trợ tá của tướng Oét, ông này đang kiểm tra tình hình để báo cáo lại với viên tư lệnh quân lực Mỹ.
- Có chuyện gì thế Trung uý? Ông ta hỏi vì thấy giọng nói kích động của bên kia đầu dây.
- Việt cộng đang ở ngoài cửa đấy, tôi nói cho ông rõ.
- Anh không sợ? Hay không việc gì chứ? Xamxân hỏi và nghĩ bụng Harpo có khi phóng đại sự việc lên.
- Tôi thề là không đâu.
Một chiếc trực thăng quân sự Mỹ mang một tốp lính từ sư đoàn Không vận 101 mưu toan đổ quân xuống nóc nhà sứ quán vào lúc 5 giờ sáng, nhưng đã thu hút một loạt hoả lực của Việt cộng bắn lên từ mặt đất, chiếc máy bay vội vàng qua trở về.
Tại sở chỉ huy Long Bình, nằm cách thành phố 15 dặm, thiếu tướng Phrêđêrich Wâyan, tư lệnh các lực lượng Mỹ vùng Sài Gòn biết tin là chiếc trực thăng này qua trở lại. Thấy rằng không cần thiết phải đổ quân trong đêm tối đầy nguy hiểm, ông ra lệnh cho lực lượng tiến công chờ cho đến khi có thời cơ thuận lợi.
Vào khoảng 6 giờ 15 phút, một chiếc trực thăng cán gáo đã có thể đỗ xuống nóc sứ quán. Nó để lại đó 3 hòm đạn súng máy M16 và cất cánh mang theo Zahuaranich, trung sĩ Xôtơ và Fisơ.Những người bảo vệ sứ quán ở trong tòa nhà thì được trang bị bằng đủ loại súng lục, shortgun và những vũ khí nhẹ khác. Vì không ai có trong tay một khẩu M16 nào nên những hòm đạn do trực thăng tiếp viện đã nằm vô dụng trên nóc nhà.
Thế giới bên ngoài lệ thuộc vào những phóng viên đang tụ tập cách đó một dãy nhà, các nhà báo tìm mọi cách để đưa tin bằng những gì họ nghe, họ nhìn và họ hỏi.
Bari Zothiân, người phát ngôn của báo chí Mỹ, cũng chẳng biết là V.C đã đột nhập vào tóa sứ quán chưa. Cả những người ở lầu 4 sứ quán cũng thế. Một trung sĩ quân cảnh ngưới quá nặng nề và quá hoảng hốt đã nói với nhóm báo chí bằng một giọng kích động "họ đang trong tòa nhà".
Pitơ Anet của hãng AP là một phóng viên chiến tranh kỳ cựu đã nhận giải Pulitgiơ về những bài vở viết về cuộc chiến tranh Việt Nam, cứ chạy đi chạy lại ngoài bức tường sứ quán đến chiếc máy điện thoại cách đó một dãy nhà. Anh ta đang liên tục đưa tin cho văn phòng AP tại ngôi nhà Eden. Dựa vào tài liệu Anet thu thập tại nơi xẩy ra chiến sự, hãng AP đã phát ra tin quan trọng đầu tiên rằng V.C đang trong tòa nhà sứ quán. Bản tin viết:
"Việt cộng tấn công Sài Gòn hôm thứ tư và chiếm một phần sứ quán Mỹ. Lực lượng quân cảnh Mỹ tìm cách tràn vào sứ quán khi trời bắt đầu hửng sáng, nhưng bị đẩy lui trước một hỏa lực rất mạnh từ tòa sứ quán bắn ra..."
Ở Niu Yoóc, đài truyền hình NBA đã đưa tin về sự kiện thảm bại này cho khoảng 14 triệu khán giả Mỹ.
"Việt cộng đã chiếm một phần sứ quán Mỹ ở Sài Gòn sáng sớm thứ Tư, theo giờ Việt Nam. Những người bắn tỉa đang ở trong các tòa nhà, trên các mái nhà gần sứ quán và đang bắn vào các nhân viên Mỹ trong khu sứ quán.
Hai mươi lính Việt cộng cảm tử được tin là đang chiếm giữ tầng một của tòa đại sứ.
Cuộc tấn công vào sứ quán và những căn cứ chủ chốt ở Sài Gòn, Tân Sơn Nhất và Biên Hòa, là đỉnh cao của cuộc tấn công lớn nhất và được phối hợp ở trình độ cao nhất của đối phương trong cuộc chiến này. Không có tin tức gì về thương vong của phía đồng minh ở Sài Gòn, nhưng người ta cho là cao.
Các cuộc tấn công xẩy ra khi hàng ngàn nhân viên dân sự đang đón mừng năm mới theo âm lịch và cào những lúc mà người ta không thể phân biệt được đâu là tiếng nổ của lựu pháo và các loại súng nhỏ với tiếng pháo mà những người vui Tết đã đốt lên..."
Ở Oasinhton, các quan chức cao cấp của chính phủ ngồi trước màn ảnh tivi với bộ mặt đầy lo lắng. Họ đang theo dõi buổi phát tin tối, vốn là nguồn thông tin hàng đầu quyết định thái độ của hầu hết dân Mỹ.Vào lúc 6 giờ 40 phút chiều ở Oasinhton, Philip Habib, người điều hành công việc về Việt Nam của Bộ ngoại giao đã gọi điện khẩn cho trụ sở tạm thời của chỉ huy sứ quán ở Sài Gòn. Tham tán chính trị của sứ quán Conhun nói chuyện bằng điện thoại với trung tâm các hoạt động chiến đấu của bộ chỉ huy quân sự Mỹ, nơi mà lúc này tin tức dồn dập đưa đến từ các trận đánh lớn ở vùng ngoại vi trung này tại sân bay Tân Sơn Nhất và khắp miền Nam. Conhun báo tin cho các sĩ quan phụ trách các hoạt động quan sự và những người này hẳn thể tin được vào cái tin rằng "mối quan tâm chính" của Oasinhton là lấy lại sứ quán Mỹ ở trung tâm Sài Gòn. Họ trả lời có phần nào dè dặt rằng bức tường cao bảo vệ sứ quán là một "vấn đề chiến thuật quan trọng" - vì Việt cộng thì ở bên trong còn lực lượng cứu viện của Mỹ lại ở bên ngoài. Tuy nhiên, Conhun được thông báo là một lực lượng cứu viện Mỹ đang xuất phát.
Không thỏa mãn với trả lời đó, Conhun điện thoại cho tướng Oet. Ông nhấn mạnh: Oasinhton quan tâm đến sứ quán, tướng Oet trấn an ông ta rằng lính trở bằng trực thăng sẽ đổ bộ xuống sứ quan ngay thôi.Khi trời hửng sáng, sĩ quan an ninh Rôbớt Fơrây loạng quạng vấp phải vật gì nằm trên vỉa hè đằng trước sứ quán. Đó là đống gạch vụn mà công binh Việt cộng đã phá bức tường thành lỗ thủng để chui vào trước đây 4 giờ. Lần đầu tiên họ hiểu ra Việt cộng đã vào được khu sứ quán bằng cách nào trong khi quân cứu viện Mỹ lại bị khóa chặt ở ngoài không vào được. Fơrây thận trọng chui qua lỗ tường, vào trong, anh ta thấy một lính Việt cộng bị thương nặng đang cố gượng ngồi lên trên bãi cỏ và lăm lăm quả lựu đạn trong tay sẵn sàng ném ra. Fơrây nhắm mục tiêu người lính trong đường ngắm của khẩu súng trong khi một tia chớp màu da cam loé lên trước mặt anh ta và cảm thấy xỉu đi trước sức dội của vụ nổ. Người lính biệt động Cộng sản đã tháo chốt quả lựu đạn, nhưng không đủ sức để ném nó đi.
Cổng trước sứ quán bị phá hỏng nghiêm trọng. Sau nhiều giờ tìm cách phá công, lính quân cảnh đã bắn vỡ khóa cổng và lấy xe jeep húc mở tung cổng ra. Họ lao vào khu sứ quán theo sau là tốp ký giả. Xác người nằm ngổn ngang khắp sân. Hầu như tất cả Việt cộng đều đã chết, đang hấp hối hay đã trốn thoát.
Cũng lúc đó một chiếc trực thăng của sư đoàn không vận 101 hạ cánh trên nóc sứ quán. Alen Oen, viên sĩ quan trực ban ra khỏi phòng mật mã trên lầu 4 và lên cầu thang máy. Khi bước ra khỏi cầu thang ở tầng 6, 5 lính nhảy dù Mỹ nai nịt chỉnh tề đến đón mừng anh ta. Họ trang bị đầy đủ: súng M16, súng phóng lựu M79, súng phóng lựu đạn cay, lựu đạn và dao găm.
Oen hỏi gặp viên chỉ huy. Thiếu tá Hilen Xuat, 33 tuổi, tiến lên và giao cho anh tả quả lựu đạn, nhưng anh ta từ chối. Oen nói với viên chỉ huy lính dù rằng theo anh được biết cho đến giờ không có Việt cộng trong tòa nhà. Để đề phòng, Xuat và lính của anh ta lần lượt đi kiểm tra toà nhà từng tầng một trong khi trực thăng tiếp tục đổ quân xuống nóc nhà với nhịp độ mỗi lúc một nhanh. Họ chả thấy bóng dáng Việt cộng nào nữa cả.
Oen hỏi gặp viên chỉ huy. Thiếu tá Hilen Xuat, 33 tuổi, tiến lên và giao cho anh tả quả lựu đạn, nhưng anh ta từ chối. Oen nói với viên chỉ huy lính dù rằng theo anh được biết cho đến giờ không có Việt cộng trong tòa nhà. Để đề phòng, Xuat và lính của anh ta lần lượt đi kiểm tra toà nhà từng tầng một trong khi trực thăng tiếp tục đổ quân xuống nóc nhà với nhịp độ mỗi lúc một nhanh. Họ chả thấy bóng dáng Việt cộng nào nữa cả.
Đại sứ Mỹ tại VNCH Bân cơ |
Ba lính gác lính thủy đánh bộ kéo lá cờ sao vạch lên cột cờ trước tòa nhà sứ quán đã bị một phen kinh hoàng vào lúc 11 giờ 45 phút sáng, 9 giờ sau khi cuộc tấn công bắt đầu. Một lát sau đại sứ Bâncơ xuất hiện, bất chấp sự can ngăn của lính gác bảo vệ, ông đi một vòng quanh khắp sứ quán để thị sát. Bâncơ trông rất tinh tươm trong chiếc quần dài vải chéo, chiếc sơ mi trắng tinh và đôi giày xỏ chân. Quây quanh ông ta là những lính thủy đánh bộ, những lính quân cảnh, lính nhảy dù và những nhân viên an ninh của bộ ngoại giao mang vẻ mặt tối sầm và bê bết máu me vì trận chiến vừa qua. Ngài đại sứ nói với các ký giả rằng Việt cộng đã thất bại trong cuộc tấn công này "vì họ không bao giờ có thể lọt vào căn nhà sứ quán".
Trận đột kích sứ quán đã chiếm lĩnh những hàng tít lớn trên nhiều báo Mỹ ra ngày hôm sau. Tời Daily New đăng xã luận trên trang nhất, một việc không bình thường, dưới đầu đề "chúng ta đang ở đâu? Chúng ta hiện ở đâu?". Kèm theo bái xã luận là một tranh biếm họa vẽ tướng Oét đang cụng đầu với một du kích Việt cộng tại một góc ngôi nhà được mệnh danh là "sứ quán Mỹ Sái Gòn". Các ngôi sao trên quân hàm vị tướng này đang bay ra khỏi bộ quân phục của ông ta, còn khẩu súng của ông ta thì dúi nòng xuống đất. Người lính Việt cộng thì dí họng súng vào bụng ông ta. Phụ đề của bức tranh viết "Chúng ta trải qua một bước ngoặt... - tướng Oetmolen."
Trận đột kích sứ quán đã chiếm lĩnh những hàng tít lớn trên nhiều báo Mỹ ra ngày hôm sau. Tời Daily New đăng xã luận trên trang nhất, một việc không bình thường, dưới đầu đề "chúng ta đang ở đâu? Chúng ta hiện ở đâu?". Kèm theo bái xã luận là một tranh biếm họa vẽ tướng Oét đang cụng đầu với một du kích Việt cộng tại một góc ngôi nhà được mệnh danh là "sứ quán Mỹ Sái Gòn". Các ngôi sao trên quân hàm vị tướng này đang bay ra khỏi bộ quân phục của ông ta, còn khẩu súng của ông ta thì dúi nòng xuống đất. Người lính Việt cộng thì dí họng súng vào bụng ông ta. Phụ đề của bức tranh viết "Chúng ta trải qua một bước ngoặt... - tướng Oetmolen."
Hậu quả
Người ta chính thức thông báo lấy lại sứ quán vào lúc 9 giờ 15 phút sáng, 6 giờ 28 phút sau khi phát ra lời kêu cứu đầu tiên.
Vào lúc 9 giờ 20 phút, tướng Oét bước qua cổng sự quán bị tan hoang để kiểm tra tình hình. TRên nền thềm cao chạy dài dưới mái che của tòa nhà là những lính Việt cộng hoặc đã chết hoặc bị trọng thương. Xác Đanien và Xibat vẫn nằm tại chỗ mà họ đã ngã xuống bên trong cổng ngách. Một số con cái người chết đang khóc lóc. Phóng viên tin và ảnh có mặt khắp mọi nơi. Ket Oeb của hãng UPI, trong một tin tường thuật rất đáng nhớ đã viết rằng quan cảnh nơi này giống một "cửa hàng thịt ở Eden"!
Đám nhà báo lắm mồm chợt im bặt khi tướng Oet đi qua chiếc sân tan hoang của sứ quán. Cuộc vây chiếm sứ quán kéo dài 6 giờ rưỡi của Việt cộng đối với nhiều người trong số họ xem là sự thất bại đau đầu nhất mà Mỹ gặp ở Việt Nam. Mặc dù quy mô tấn công nhỏ, nhưng chuyện thì thật tầy đình. Dường như nó đã vạch ra sự dối trá của cái hình ảnh màu hồng và những lời tuyên bố chiến thắng mà tướng Oét và nhiều người khác đưa ra.
Lần này các nhà báo cảm thấy tội nghiệp cho tướng Oét. Ông ta sẽ có thể nói những gì trước thảm họa này? Họ tin rằng ông ta phải nói một vài câu.
Oetmolen bước nhanh vào hành lang và bắt tay trung sĩ Harpo, người vẫn đang ngồi tại vị trí của mình. Theo yêu cầu của tướng Oét, Oen gọi điện thoại ưu tiên cho Philip Habib ở Oasinhton. Tướng Oét nói trong khoảng 20 phút, miêu tả tình hình và tìm hết cách để làm dịu sự kinh hoàng đang lan tràn ở thủ đô của Hoa Kỳ.
Ông ta bỏ ống nói xuống, nói vài câu với Bari Zothian, cố vấn ngoại vụ và bước ra để gặp các nhà báo. Ông mặc bộ quần áo lao động hồ cứng và là phẳng, với 4 ngôi sao đính trên ve áo.
Đối diện với vòng người đứng quanh gồm các nhà báo, các phóng viên ảnh và truyền hình, tướng Oét đưa ra nhận định về mặt quân sự "những kế hoạch chu đáo của kẻ địch đã phá sản". Tòa nhà chỉ bị hư hại một ít bên ngoài. Tất cả kẻ địch đột nhập vào khu sứ quán mà theo tôi biết cho đến này đều bị giết. 19 xác tìm thấy trong khu sứ quán - xác kẻ thù.
Tướng Oét nói rằng những cuộc tấn công vào các vùng dân cư khắm miền Nam là được tính toán một cách "hết sức lừa bịp" để gây sự kinh hoàng lớn nhất Việt Nam, và nói lên quan điểm của mình rằng họ đã bị "đánh lạc hướng. Vì những nỗ lực của Việt Cộng vẫn là nhằm vào Khe Sanh và vùng bắc Trung phần. Kẻ địch đã bộc lộ lực lượng và do chiến lược của họ nên đã chịu thương vong lớn... Với sự đồng ý của chúng tôi, tổng thống Thiệu đã thủ tiêu lệnh ngưng bắn, quân đội Mỹ tiếp tục tấn công và truy kích kẻ địch hết sức mãnh liệt". Ông tuyên bố.
Các nhà báo hình như không còn tin vào tai mình nữa. Tướng Oét đang đứng trên đống hoang tàn và nói rằng mọi việc đều vĩ đại.
Như thương xẩy ra trong chiến tranh Việt Nam, việc "đếm xác" lính Việt cộng tại sứ quán Mỹ đã tỏ ra thổi phồng. Bốn xác người Việt là 4 lái xe dân sự trực đêm tại đội xe của sứ quán đêm đó. Một nhân viên an ninh Mỹ sau đó kể rằng anh ta thấy một "kẻ địch" gục xuống phía sau chiếc bồn cây bằng xi măng, gào to và cầm cái gì trong tay quơ lên loạn xạ trước khi giết. Đó là tấm thẻ chứng minh nhân viên sứ quán Mỹ của anh ta.
Một trong những người lái xe bất hạnh này để lại 1 vợ và 7 con, một người nữa là một vợ và 6 con còn người thứ 3 một vợ và một con.
Những lính thủy đánh bộ tham gia bảo vệ sứ quán nói rằng họ thấy một người lái xe Việt Nam thứ tư có danh là "Xatsơmo" cầm súng bắn vào họ. Tên thật anh là N.V.D đã liên tục làm việc cho sứ quán từ năm 1950. Anh ta đã từng có lần lái xe riêng cho đại sứ Mỹ. Mọi người trong sứ quán đều biết anh, người nổi tiếng là thân Mỹ nhất trong số nhân viên người Việt Nam làm việc cho sứ quán. Anh ta phải là Việt công, một nhân viên bí thư sứ quán nói, bởi vì anh ta khôn ngoan hơn những lái xe khác. Sau cuộc chiến, người Mỹ tìm thấy cạnh xác anh ta một khẩu AK47, và khẩu súng lục Braoninh dắt ở thắt lưng.Ngay sau khi trận chiến tại sứ quán chấm dứt, chính phủ Mỹ bắt đầu biến sứ quán Mỹ ở Sài Gòn thành một sở chỉ huy được phòng ngự hết sức chắc chắn. Quân đội chuyển giao cho lính thủy đánh bộ bảo vệ sứ quán nào súng máy, súng tiểu liên M16, lựu đạn, mặt nạ phòng hơi cay và các vũ khí trang bị khác. Người ta xây những ổ đặt súng máy trên nóc sứ quán. Những lao công thì dọn dẹp những chậu hoa tròn đã từng trở thành những vị trí chiến đấu tốt cho các tay súng Việt cộng trong khu vườn sứ quán và mang đến đặt tại một công viên trung tâm thành phố. Một hệ thống thông tin liên lạc hết sức tinh vi, có thể làm cho những người bảo vệ sứ quán thường xuyên liên lạc với các đơn vị bên ngoài được lắp đặt...
Về những người có "chiến công" bảo vệ sứ quán, thì trung sĩ Harpo được thưởng huy chương Sao Đồng vì một mình đã chống chọi bảo vệ sứ quán, và sau đó anh ta rời khỏi lính thủy đánh bộ để trở thành một phó quản đốc một trạm dịch vụ ở Minexôta, bang quê quán của anh ta. Oend, viên sĩ quan trực ban của sứ quán hôm đó, các sĩ quan an ninh Kramxay, Phơrây và nhân viên mật mã Gripphin được bằng khen của bộ ngoại giao vì hành động anh hùng. Sau đó họ được chuyển đi làm nơi khác.Gioocgiơ Gracôpxân cũng được bằng khen của bộ ngoại giao vì hành động anh hùng. Tướng Oét đã tặng ông ta một khẩu súng AK47 mà một Việt cộng bị tử thương bỏ lại, khẩu súng gắn một tấm biển nhỏ bằng đồng rất đẹp có ghi hàng chữ: "Một Việt cộng đã bắn khẩu súng này nhưng không trúng. Ngài đại tá bắn lại và không chệch đích." Gracôpxân vẫn tiếp tục sống tại biệt thự của ông trong sứ quán gần 2 năm nữa. Đến lúc này, đếm những khẩu súng cất trong các căn phòng, tất cả có tới 37 khẩu.
Hết.
Người ta chính thức thông báo lấy lại sứ quán vào lúc 9 giờ 15 phút sáng, 6 giờ 28 phút sau khi phát ra lời kêu cứu đầu tiên.
Vào lúc 9 giờ 20 phút, tướng Oét bước qua cổng sự quán bị tan hoang để kiểm tra tình hình. TRên nền thềm cao chạy dài dưới mái che của tòa nhà là những lính Việt cộng hoặc đã chết hoặc bị trọng thương. Xác Đanien và Xibat vẫn nằm tại chỗ mà họ đã ngã xuống bên trong cổng ngách. Một số con cái người chết đang khóc lóc. Phóng viên tin và ảnh có mặt khắp mọi nơi. Ket Oeb của hãng UPI, trong một tin tường thuật rất đáng nhớ đã viết rằng quan cảnh nơi này giống một "cửa hàng thịt ở Eden"!
Đám nhà báo lắm mồm chợt im bặt khi tướng Oet đi qua chiếc sân tan hoang của sứ quán. Cuộc vây chiếm sứ quán kéo dài 6 giờ rưỡi của Việt cộng đối với nhiều người trong số họ xem là sự thất bại đau đầu nhất mà Mỹ gặp ở Việt Nam. Mặc dù quy mô tấn công nhỏ, nhưng chuyện thì thật tầy đình. Dường như nó đã vạch ra sự dối trá của cái hình ảnh màu hồng và những lời tuyên bố chiến thắng mà tướng Oét và nhiều người khác đưa ra.
Lần này các nhà báo cảm thấy tội nghiệp cho tướng Oét. Ông ta sẽ có thể nói những gì trước thảm họa này? Họ tin rằng ông ta phải nói một vài câu.
Oetmolen bước nhanh vào hành lang và bắt tay trung sĩ Harpo, người vẫn đang ngồi tại vị trí của mình. Theo yêu cầu của tướng Oét, Oen gọi điện thoại ưu tiên cho Philip Habib ở Oasinhton. Tướng Oét nói trong khoảng 20 phút, miêu tả tình hình và tìm hết cách để làm dịu sự kinh hoàng đang lan tràn ở thủ đô của Hoa Kỳ.
Ông ta bỏ ống nói xuống, nói vài câu với Bari Zothian, cố vấn ngoại vụ và bước ra để gặp các nhà báo. Ông mặc bộ quần áo lao động hồ cứng và là phẳng, với 4 ngôi sao đính trên ve áo.
Đối diện với vòng người đứng quanh gồm các nhà báo, các phóng viên ảnh và truyền hình, tướng Oét đưa ra nhận định về mặt quân sự "những kế hoạch chu đáo của kẻ địch đã phá sản". Tòa nhà chỉ bị hư hại một ít bên ngoài. Tất cả kẻ địch đột nhập vào khu sứ quán mà theo tôi biết cho đến này đều bị giết. 19 xác tìm thấy trong khu sứ quán - xác kẻ thù.
Tướng Oét nói rằng những cuộc tấn công vào các vùng dân cư khắm miền Nam là được tính toán một cách "hết sức lừa bịp" để gây sự kinh hoàng lớn nhất Việt Nam, và nói lên quan điểm của mình rằng họ đã bị "đánh lạc hướng. Vì những nỗ lực của Việt Cộng vẫn là nhằm vào Khe Sanh và vùng bắc Trung phần. Kẻ địch đã bộc lộ lực lượng và do chiến lược của họ nên đã chịu thương vong lớn... Với sự đồng ý của chúng tôi, tổng thống Thiệu đã thủ tiêu lệnh ngưng bắn, quân đội Mỹ tiếp tục tấn công và truy kích kẻ địch hết sức mãnh liệt". Ông tuyên bố.
Các nhà báo hình như không còn tin vào tai mình nữa. Tướng Oét đang đứng trên đống hoang tàn và nói rằng mọi việc đều vĩ đại.
Như thương xẩy ra trong chiến tranh Việt Nam, việc "đếm xác" lính Việt cộng tại sứ quán Mỹ đã tỏ ra thổi phồng. Bốn xác người Việt là 4 lái xe dân sự trực đêm tại đội xe của sứ quán đêm đó. Một nhân viên an ninh Mỹ sau đó kể rằng anh ta thấy một "kẻ địch" gục xuống phía sau chiếc bồn cây bằng xi măng, gào to và cầm cái gì trong tay quơ lên loạn xạ trước khi giết. Đó là tấm thẻ chứng minh nhân viên sứ quán Mỹ của anh ta.
Một trong những người lái xe bất hạnh này để lại 1 vợ và 7 con, một người nữa là một vợ và 6 con còn người thứ 3 một vợ và một con.
Những lính thủy đánh bộ tham gia bảo vệ sứ quán nói rằng họ thấy một người lái xe Việt Nam thứ tư có danh là "Xatsơmo" cầm súng bắn vào họ. Tên thật anh là N.V.D đã liên tục làm việc cho sứ quán từ năm 1950. Anh ta đã từng có lần lái xe riêng cho đại sứ Mỹ. Mọi người trong sứ quán đều biết anh, người nổi tiếng là thân Mỹ nhất trong số nhân viên người Việt Nam làm việc cho sứ quán. Anh ta phải là Việt công, một nhân viên bí thư sứ quán nói, bởi vì anh ta khôn ngoan hơn những lái xe khác. Sau cuộc chiến, người Mỹ tìm thấy cạnh xác anh ta một khẩu AK47, và khẩu súng lục Braoninh dắt ở thắt lưng.Ngay sau khi trận chiến tại sứ quán chấm dứt, chính phủ Mỹ bắt đầu biến sứ quán Mỹ ở Sài Gòn thành một sở chỉ huy được phòng ngự hết sức chắc chắn. Quân đội chuyển giao cho lính thủy đánh bộ bảo vệ sứ quán nào súng máy, súng tiểu liên M16, lựu đạn, mặt nạ phòng hơi cay và các vũ khí trang bị khác. Người ta xây những ổ đặt súng máy trên nóc sứ quán. Những lao công thì dọn dẹp những chậu hoa tròn đã từng trở thành những vị trí chiến đấu tốt cho các tay súng Việt cộng trong khu vườn sứ quán và mang đến đặt tại một công viên trung tâm thành phố. Một hệ thống thông tin liên lạc hết sức tinh vi, có thể làm cho những người bảo vệ sứ quán thường xuyên liên lạc với các đơn vị bên ngoài được lắp đặt...
Về những người có "chiến công" bảo vệ sứ quán, thì trung sĩ Harpo được thưởng huy chương Sao Đồng vì một mình đã chống chọi bảo vệ sứ quán, và sau đó anh ta rời khỏi lính thủy đánh bộ để trở thành một phó quản đốc một trạm dịch vụ ở Minexôta, bang quê quán của anh ta. Oend, viên sĩ quan trực ban của sứ quán hôm đó, các sĩ quan an ninh Kramxay, Phơrây và nhân viên mật mã Gripphin được bằng khen của bộ ngoại giao vì hành động anh hùng. Sau đó họ được chuyển đi làm nơi khác.Gioocgiơ Gracôpxân cũng được bằng khen của bộ ngoại giao vì hành động anh hùng. Tướng Oét đã tặng ông ta một khẩu súng AK47 mà một Việt cộng bị tử thương bỏ lại, khẩu súng gắn một tấm biển nhỏ bằng đồng rất đẹp có ghi hàng chữ: "Một Việt cộng đã bắn khẩu súng này nhưng không trúng. Ngài đại tá bắn lại và không chệch đích." Gracôpxân vẫn tiếp tục sống tại biệt thự của ông trong sứ quán gần 2 năm nữa. Đến lúc này, đếm những khẩu súng cất trong các căn phòng, tất cả có tới 37 khẩu.
Hết.
Chiến sỹ đặc công cuối cùng bị bắt |
Biệt động thành và 6 giờ đánh chiếm Đại sứ quán Mỹ tết Mậu Thân 1968 Âm vang của trận đánh ấy đã lan toả đến hầu hết các nước trên thế giới hồi bấy giờ. Người chỉ huy trận chiến đấu ngoan cường và quả cảm ấy là anh Ngô Văn Vân, sinh năm 1925, tại thôn Hà Lương, xã Hạ Hồ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây).
Thời chiến tranh chống Mỹ, ở Sài Gòn-Gia Định có một lực lượng mà chiến công của họ đã khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Họ là những chiến sỹ biệt động quả cảm và những chiến công của họ mãi mãi được lịch sử ghi nhận. Một trong những chiến công vang dội của lực lượng biệt động Thành Sài Gòn – Gia Định trong những năm đánh Mỹ là trận đánh vào Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn vào mùa xuân năm 1968.
Theo anh kể thì vào những ngày giáp Tết Mậu Thân, anh đang công tác ở nội thành thì được cấp trên gọi ra ngoài căn cứ để nhận nhiệm vụ mới. Khi về tới xã An Tịnh, huyện Trảng Bàng là đúng 11 giờ đêm 28/01/1968. Tại đây anh được cấp trên giao cho nhiệm vụ đặc biệt : Tổ chức một lực lượng đặc công biệt động đánh vào toà Đại sứ Mỹ.
Nhận nhiệm vụ, trở về đơn vị, anh triệu tập họp chi uỷ quán triệt và phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong tổ. Theo đó anh Hai Chí – Chính trị viên, phụ trách đường dây liên lạc với các cơ sở trong nội thành, phụ trách công tác chính trị tư tưởng, phục vụ cho trận đánh. Anh Ba Dung – Chỉ huy phó, chịu trách nhiệm liên lạc với các tổ võ trang vùng nội thành và ven đô. Còn anh là chỉ huy trưởng, tiếp nhận quân số bổ sung cho đơn vị, súng đạn, thuốc nổ để kịp thời chuyển vào nội thành.
Cũng ngay tối hôm đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch tăng cường cho phân đội hai cán bộ có kinh nghiệm đánh trong thành phố (đồng chí Bảy Tiến và đồng chí út Nhỏ) cùng một số chiến sĩ ở các đơn vị được tuyển chọn tham gia trận đánh. Hoàn tất công việc chuẩn bị thì cũng là lúc cấp trên ra lệnh: “Đúng 12 giờ trưa ngày 30/01/1968, toàn phân đội phải tập trung tại điểm hẹn trong nội thành”.
Theo kế hoạch sáng 30-01, cán bộ chiến sĩ dậy sớm, tắm giặt, sửa sang đầu tóc, liên hoan mừng xuân mới. Mọi người mặc sắc phục, đeo phù hiệu của một binh chủng quân đội Nguỵ. Mọi công việc chuẩn bị đã xong, tất cả phân đội lên chiếc xe nhà binh do đồng chí Ba Bảo lái vào thành phố đi trên Quốc lộ1. Đến 11 giờ 30 phút tới trạm gác Củ Chi, đồng chí Ba Bảo cho xe tăng tốc vượt qua. Cùng lúc đó, đồng chí Huệ phát hiện có một tên phóng Honda đuổi theo xe của ta.
Đồng chí Huệ cũng nhận ra mặt hắn, là một tên chiêu hồi. Hắn cũng nhận ra mặt đồng chí Huệ trên xe, liền vượt lên trước để đón lõng ở trạm gác Cầu Bông. Thấy vậy, Anh Vân lệnh quay xe lại tạm ém quân vào Bào Mây, và liên lạc với đồng chí Bảy Hoàng, đang lái chiếc xe Jép, từ Sài Gòn ra. Để lừa địch, toàn phân đội lần nữa phải thay sắc phục binh chủng khác rồi tiến thẳng vào Sài Gòn, anh Vân ra lệnh: Trên đường đi gặp địch cản trở, sẽ nổ súng tiêu diệt để vượt qua!
2 giờ chiều thì tới thành phố, toàn phân đội phân tán từng nhóm về nhà các cơ sở. Ngay tối hôm đó, các mũi tập kết tại nhà bà Huệ, chủ ga-ra sửa chữa xe hơi ở đường Phan Thanh Giản. Anh Vân cùng đồng chí hai Chí, lái chiếc xe Pơ-dô 208 màu trắng đến Đại lộ Thống Nhất để tiếp cận mục tiêu, quan sát địa hình. Sơ đồ phía trong toà Đại sứ đã có anh em tình báo quân sự cung cấp.
Toàn bộ vũ khí, đạn dược được tập kết về ga ra ôtô nhà bà Huệ. Lúc 12 giờ rưỡi đêm tại trụ sở chỉ huy chiến dịch ở quán phở Bình số 7 đường Yên Đỗ, anh Vân được báo cáo với đồng chí Ba Thăng – Chính uỷ (tức đ/c Võ Văn Thạch) và đ/c Tư Chu – Chỉ huy trưởng (tức đ/c Đại tá Nguyễn Đức Hùng), các đ/c động viên căn dặn phân đội quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
3 giờ sáng, toàn phân đội xuất phát theo kế hoạch. Xe ôtô chở đội biệt động tới cổng toà Đại sứ, hai chiến sĩ cầm AK nhanh chóng lao xuống quét nhiều loạt đạn tiêu diệt gọn mấy tên lính Mỹ gác ở cổng chính, đồng thời kìm chế những tên còn lại. Hai đồng chí khác ôm bộc phá xông lên, đánh sập tường rào vọng gác. Toàn phân đội tràn vào đồng loạt nổ súng để áp đảo. Sau đó, họ chia làm ba mũi, mũi một chiếm giữ cổng trước, mũi hai đánh giữ cổng sau (phía đường Mạc Đĩnh Chi), còn mũi thứ ba đánh thẳng vào dãy nhà nhân viên hành chính.
Anh Vân trực tiếp chỉ huy số anh em còn lại, đánh thẳng vào khu nhà chính. Hoàn tất các việc trên, đồng chí út Nhỏ và hai đồng chí án ngữ tầng một và giữ số tù binh ta vừa bắt được. Anh Vân cùng mấy đồng chí khác đánh chiếm tầng hai, bắt thêm được một số tù binh Mỹ, rồi thừa thắng xông lên đánh chiếm tầng ba. Chỉ trong khoảng năm phút, quân ta đã làm chủ tầng ba một cách dễ dàng, mau lẹ, thu rất nhiều súng đạn và bắt gửi thêm một số tù binh. Kẻ địch ở thế bị động hoang mang bối rối. Vợ con lính Mỹ và số nhân viên hành chính gào khóc thảm thiết.
Khoảng nửa giờ sau, địch bắt đầu có chi viện từ bên ngoài, phản kích lại. Ngoài đường tiếng xe bọc thép chạy gầm rú và bắn như đổ đạn về phía quân ta. Chiến sĩ ta vừa chiến đấu vừa khiêng tủ, bàn ghế chất lên tạo thành chướng ngại vật phòng ngự. Trong khoảnh khắc, từ các nhà tầng bên cạnh, lính Mỹ đã kéo đến. Máy bay lên thẳng đỗ trên các nóc nhà để chở vợ con lính Mỹ chạy trốn. Còn xe bọc thép thì vây kín toà Đại sứ, tạo thành thế bao vây dưới đánh lên, trên tầng đánh xuống.
Cũng trong thời điểm này, tại phía cổng phụ (đường Mạc Đĩnh Chi) và khu nhà nhân viên toà Đại sứ, có hàng trăm lính Mỹ, đầu đội mũ sắt, mình mặc áo giáp, tay cầm tiểu liên R15 dàn đội hình chiến đấu. Theo sau là mấy chục phóng viên báo chí cũng đội mũ sắt, cầm máy ảnh, máy quay phim chạy đi chạy lại. Một số tù binh vừa bắt được đã chạy ùa lên cả tầng ba. Anh Vân chỉ cho chúng vào một phòng rồi khóa lại. Tình thế càng trở nên rất khẩn trương, anh Vân vẫn chỉ huy mũi chính tấn công truy kích địch. Hai đồng chí Vinh và Mang đem theo hai súng B40.
Còn anh cầm AK đi đầu lùng sục khắp các phòng nhà trên tầng ba tìm bắt đại sứ Mỹ, nhưng hắn đã nhanh chân chạy ra đường hầm tẩu thoát. Tới một phòng cửa đóng chặt, anh Vân bắn tiểu liên vào ổ khoá mà cửa vẫn không mở. Thấy vậy, đồng chí Vinh buộc phải dùng B40 để phá cửa. Tiếng nổ vang dội, cả một mảnh tường sập đổ. Đồng chí Vinh anh dũng hy sinh. Anh em khiêng đồng chí đặt nằm ngay ngắn bên cạnh khẩu B40 không còn đạn. Anh Vân cởi chiếc áo sơ mi đang mặc đắp lên người đồng đội thân thiết.
Xong việc anh và đồng chí Mang tiếp tục đi truy tìm tên Đại sứ. Lúc này trời bắt đầu sáng rõ, đồng hồ chỉ 7 giờ 15 phút sáng ngày 31/01/1968, Phân đội đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ, đánh chiếm giữ nhiều giờ toà Đại sứ. Để tái chiếm lại tòa đại sứ, địch đã phản kích lại điên cuồng, kể cả việc thả chất độc hoá học gây ngạt thở. Hai tốp lính xông tới định bắt sống các anh nhưng đ/c Mang đã kịp thời bắn quả B40 tiêu diệt chúng. Song đáng tiếc, chỉ mấy phút sau, đ/c Mang cũng hy sinh.
Nhìn đồng hồ, lúc này là 9 giờ sáng, anh nhẩm tính đã cùng đồng đội chiếm giữ toà Đại sứ Mỹ được gần 6 tiếng đồng hồ. Thấy xung quanh không còn tiếng súng của quân ta, thoáng một ý nghĩ rất táo bạo; anh ôm gói bộc phá bò áp sát chân tường cầu thang, chờ đám lính Mỹ từ tầng trên kéo xuống, rồi lao ra giật nụ xoè. Một chớp lửa xanh loé lên, tiếng nổ vang dội. Những tên lính Mỹ tung lên rơi xuống, anh Vân cũng văng ra xa và ngất lịm.
Thời chiến tranh chống Mỹ, ở Sài Gòn-Gia Định có một lực lượng mà chiến công của họ đã khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Họ là những chiến sỹ biệt động quả cảm và những chiến công của họ mãi mãi được lịch sử ghi nhận. Một trong những chiến công vang dội của lực lượng biệt động Thành Sài Gòn – Gia Định trong những năm đánh Mỹ là trận đánh vào Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn vào mùa xuân năm 1968.
Theo anh kể thì vào những ngày giáp Tết Mậu Thân, anh đang công tác ở nội thành thì được cấp trên gọi ra ngoài căn cứ để nhận nhiệm vụ mới. Khi về tới xã An Tịnh, huyện Trảng Bàng là đúng 11 giờ đêm 28/01/1968. Tại đây anh được cấp trên giao cho nhiệm vụ đặc biệt : Tổ chức một lực lượng đặc công biệt động đánh vào toà Đại sứ Mỹ.
Nhận nhiệm vụ, trở về đơn vị, anh triệu tập họp chi uỷ quán triệt và phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong tổ. Theo đó anh Hai Chí – Chính trị viên, phụ trách đường dây liên lạc với các cơ sở trong nội thành, phụ trách công tác chính trị tư tưởng, phục vụ cho trận đánh. Anh Ba Dung – Chỉ huy phó, chịu trách nhiệm liên lạc với các tổ võ trang vùng nội thành và ven đô. Còn anh là chỉ huy trưởng, tiếp nhận quân số bổ sung cho đơn vị, súng đạn, thuốc nổ để kịp thời chuyển vào nội thành.
Cũng ngay tối hôm đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch tăng cường cho phân đội hai cán bộ có kinh nghiệm đánh trong thành phố (đồng chí Bảy Tiến và đồng chí út Nhỏ) cùng một số chiến sĩ ở các đơn vị được tuyển chọn tham gia trận đánh. Hoàn tất công việc chuẩn bị thì cũng là lúc cấp trên ra lệnh: “Đúng 12 giờ trưa ngày 30/01/1968, toàn phân đội phải tập trung tại điểm hẹn trong nội thành”.
Theo kế hoạch sáng 30-01, cán bộ chiến sĩ dậy sớm, tắm giặt, sửa sang đầu tóc, liên hoan mừng xuân mới. Mọi người mặc sắc phục, đeo phù hiệu của một binh chủng quân đội Nguỵ. Mọi công việc chuẩn bị đã xong, tất cả phân đội lên chiếc xe nhà binh do đồng chí Ba Bảo lái vào thành phố đi trên Quốc lộ1. Đến 11 giờ 30 phút tới trạm gác Củ Chi, đồng chí Ba Bảo cho xe tăng tốc vượt qua. Cùng lúc đó, đồng chí Huệ phát hiện có một tên phóng Honda đuổi theo xe của ta.
Đồng chí Huệ cũng nhận ra mặt hắn, là một tên chiêu hồi. Hắn cũng nhận ra mặt đồng chí Huệ trên xe, liền vượt lên trước để đón lõng ở trạm gác Cầu Bông. Thấy vậy, Anh Vân lệnh quay xe lại tạm ém quân vào Bào Mây, và liên lạc với đồng chí Bảy Hoàng, đang lái chiếc xe Jép, từ Sài Gòn ra. Để lừa địch, toàn phân đội lần nữa phải thay sắc phục binh chủng khác rồi tiến thẳng vào Sài Gòn, anh Vân ra lệnh: Trên đường đi gặp địch cản trở, sẽ nổ súng tiêu diệt để vượt qua!
2 giờ chiều thì tới thành phố, toàn phân đội phân tán từng nhóm về nhà các cơ sở. Ngay tối hôm đó, các mũi tập kết tại nhà bà Huệ, chủ ga-ra sửa chữa xe hơi ở đường Phan Thanh Giản. Anh Vân cùng đồng chí hai Chí, lái chiếc xe Pơ-dô 208 màu trắng đến Đại lộ Thống Nhất để tiếp cận mục tiêu, quan sát địa hình. Sơ đồ phía trong toà Đại sứ đã có anh em tình báo quân sự cung cấp.
Toàn bộ vũ khí, đạn dược được tập kết về ga ra ôtô nhà bà Huệ. Lúc 12 giờ rưỡi đêm tại trụ sở chỉ huy chiến dịch ở quán phở Bình số 7 đường Yên Đỗ, anh Vân được báo cáo với đồng chí Ba Thăng – Chính uỷ (tức đ/c Võ Văn Thạch) và đ/c Tư Chu – Chỉ huy trưởng (tức đ/c Đại tá Nguyễn Đức Hùng), các đ/c động viên căn dặn phân đội quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
3 giờ sáng, toàn phân đội xuất phát theo kế hoạch. Xe ôtô chở đội biệt động tới cổng toà Đại sứ, hai chiến sĩ cầm AK nhanh chóng lao xuống quét nhiều loạt đạn tiêu diệt gọn mấy tên lính Mỹ gác ở cổng chính, đồng thời kìm chế những tên còn lại. Hai đồng chí khác ôm bộc phá xông lên, đánh sập tường rào vọng gác. Toàn phân đội tràn vào đồng loạt nổ súng để áp đảo. Sau đó, họ chia làm ba mũi, mũi một chiếm giữ cổng trước, mũi hai đánh giữ cổng sau (phía đường Mạc Đĩnh Chi), còn mũi thứ ba đánh thẳng vào dãy nhà nhân viên hành chính.
Anh Vân trực tiếp chỉ huy số anh em còn lại, đánh thẳng vào khu nhà chính. Hoàn tất các việc trên, đồng chí út Nhỏ và hai đồng chí án ngữ tầng một và giữ số tù binh ta vừa bắt được. Anh Vân cùng mấy đồng chí khác đánh chiếm tầng hai, bắt thêm được một số tù binh Mỹ, rồi thừa thắng xông lên đánh chiếm tầng ba. Chỉ trong khoảng năm phút, quân ta đã làm chủ tầng ba một cách dễ dàng, mau lẹ, thu rất nhiều súng đạn và bắt gửi thêm một số tù binh. Kẻ địch ở thế bị động hoang mang bối rối. Vợ con lính Mỹ và số nhân viên hành chính gào khóc thảm thiết.
Khoảng nửa giờ sau, địch bắt đầu có chi viện từ bên ngoài, phản kích lại. Ngoài đường tiếng xe bọc thép chạy gầm rú và bắn như đổ đạn về phía quân ta. Chiến sĩ ta vừa chiến đấu vừa khiêng tủ, bàn ghế chất lên tạo thành chướng ngại vật phòng ngự. Trong khoảnh khắc, từ các nhà tầng bên cạnh, lính Mỹ đã kéo đến. Máy bay lên thẳng đỗ trên các nóc nhà để chở vợ con lính Mỹ chạy trốn. Còn xe bọc thép thì vây kín toà Đại sứ, tạo thành thế bao vây dưới đánh lên, trên tầng đánh xuống.
Cũng trong thời điểm này, tại phía cổng phụ (đường Mạc Đĩnh Chi) và khu nhà nhân viên toà Đại sứ, có hàng trăm lính Mỹ, đầu đội mũ sắt, mình mặc áo giáp, tay cầm tiểu liên R15 dàn đội hình chiến đấu. Theo sau là mấy chục phóng viên báo chí cũng đội mũ sắt, cầm máy ảnh, máy quay phim chạy đi chạy lại. Một số tù binh vừa bắt được đã chạy ùa lên cả tầng ba. Anh Vân chỉ cho chúng vào một phòng rồi khóa lại. Tình thế càng trở nên rất khẩn trương, anh Vân vẫn chỉ huy mũi chính tấn công truy kích địch. Hai đồng chí Vinh và Mang đem theo hai súng B40.
Còn anh cầm AK đi đầu lùng sục khắp các phòng nhà trên tầng ba tìm bắt đại sứ Mỹ, nhưng hắn đã nhanh chân chạy ra đường hầm tẩu thoát. Tới một phòng cửa đóng chặt, anh Vân bắn tiểu liên vào ổ khoá mà cửa vẫn không mở. Thấy vậy, đồng chí Vinh buộc phải dùng B40 để phá cửa. Tiếng nổ vang dội, cả một mảnh tường sập đổ. Đồng chí Vinh anh dũng hy sinh. Anh em khiêng đồng chí đặt nằm ngay ngắn bên cạnh khẩu B40 không còn đạn. Anh Vân cởi chiếc áo sơ mi đang mặc đắp lên người đồng đội thân thiết.
Xong việc anh và đồng chí Mang tiếp tục đi truy tìm tên Đại sứ. Lúc này trời bắt đầu sáng rõ, đồng hồ chỉ 7 giờ 15 phút sáng ngày 31/01/1968, Phân đội đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ, đánh chiếm giữ nhiều giờ toà Đại sứ. Để tái chiếm lại tòa đại sứ, địch đã phản kích lại điên cuồng, kể cả việc thả chất độc hoá học gây ngạt thở. Hai tốp lính xông tới định bắt sống các anh nhưng đ/c Mang đã kịp thời bắn quả B40 tiêu diệt chúng. Song đáng tiếc, chỉ mấy phút sau, đ/c Mang cũng hy sinh.
Nhìn đồng hồ, lúc này là 9 giờ sáng, anh nhẩm tính đã cùng đồng đội chiếm giữ toà Đại sứ Mỹ được gần 6 tiếng đồng hồ. Thấy xung quanh không còn tiếng súng của quân ta, thoáng một ý nghĩ rất táo bạo; anh ôm gói bộc phá bò áp sát chân tường cầu thang, chờ đám lính Mỹ từ tầng trên kéo xuống, rồi lao ra giật nụ xoè. Một chớp lửa xanh loé lên, tiếng nổ vang dội. Những tên lính Mỹ tung lên rơi xuống, anh Vân cũng văng ra xa và ngất lịm.
Hai ngày sau anh mới tỉnh dậy, toàn thân băng bó, nằm trong nhà thương Chợ Quán. Tiếp sau là những ngày anh phải trải qua tra tấn, đánh đập dã man. Bọn địch đã dùng nhiều thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ chiêu hồi cũng không làm anh nao núng. Từ tháng 7 năm 1969 chúng giam anh ở Biên Hoà rồi đầy anh ra giam giữ ở nhà tù đảo Phú Quốc. Tháng 10 năm 1973 được phía Mỹ trao trả tù binh, anh về nhận công tác ở Bộ Tư lệnh Đặc công cho đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc
Theo báo CAND
Theo báo CAND
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét