Chủ Nhật, tháng 8 31, 2008

Đi 1 ngày đàng...

Tiện có cô cháu từ SG ra công tác, nhà tôi tổ chức du hí Bát Tràng. Nghe Hồng Hải, Hữu Thành ca ngợi, nay mới mục kích. Qua cầu Thanh Trì, vòng vèo vài cây số dọc đê thì thấy có biển quảng cao to tướng “sứ Bát Tràng”. Làng nghề nằm ngoài đê. Gửi xe ở sân chùa rồi lang thang dạo phố. San sát những cửa hàng trưng bày đồ gốm sứ.

Vào thăm 1 xưởng làm khuôn mới hiểu được đây là công đoạn đầu tiên mà xưởng gốm nào cũng phải dùng sản phẩm của nó. Bàn xoay không còn làm thủ công mà đã thay bằng động cơ. Dân Bát Tràng rất quý khách, cho khách lạ vào xem thoải mái.

Rời khu bán buôn, chúng tôi vào sâu trong làng thăm xưởng sản xuất. Là làng nghề truyền thống nên xưởng nằm ngay trong khuôn viên mỗi nhà. Có vài xưởng hiện đại thì đốt lò nung gốm bằng gas, còn lại là than bùn. Những nắm than đen sì, to như cái đĩa, dán lên bờ tường chờ khô. Thấy cả những máy trộn to như téc chở xăng đang quay nhào trộn đất sét. Hay đây chính là điểm nhập và chế biến nguyên liệu để bán cho các xưởng nhỏ?

Tần ngần đứng trước 1 cổng nhà. Cụ chủ nhà (chắc đã ngoài 80) thấy chúng tôi có ý muốn vào thăm đã niềm nở đón chào. Cụ có mấy người con (cỡ tuổi chúng ta) cũng làm nghề gốm. Xưởng nhỏ nên phải mua khuôn từ xưởng mẫu. Đất sét, trước thì dùng đất ở ngay Bát Tràng, nay phải mua từ các tỉnh xa, được trộn với nước thành hợp chất sền sệt dạng bùn. Việc trộn thủ công đã được thay bằng động cơ. Riêng khi rót nước bùn vào khuôn thì dùng tay. Rót xong chỉ phải chờ vài phút là có thể rót phần bùn còn dư ra để tái sử dụng, sau đó có thể tháo lõi rồi dỡ khuôn (vì khuôn làm bằng vật liệu hút nước, nếu đã dùng nhiều lần thì khuôn sẽ no nước và làm cho thời gian chờ khô kéo dài ra). Và như vậy mới hiểu chả có khuôn nào dùng được mãi và nhà làm khuôn luôn có khách hàng(!).

Khi chúng tôi vào thăm thì xưởng của cụ đang làm bình gốm trồng hoa. Những bình gốm còn ở dạng nguyên thuỷ làm bằng đất sét chưa thật khô được xếp hàng chờ mang ra phơi nắng. Sân nhà là khu phơi sản phẩm. Khi phơi chờ cho sản phẩm tương đối se bề mặt mới có thể mang vào vẽ hoa văn, trang trí màu mè. Cũng có thợ chuyên vẽ đi từng nhà vẽ thuê. Vẽ xong lại chuyển sang nhà khác.

Giai đoạn cuối cùng là tráng men và đưa vào lò nung. Việc làm rạn bề mặt đều là bí quyết của việc sử dụng men. Sản phẩm nung xếp chồng chất bên trong lò nung cao tới 4-5m. Xưởng của cụ đốt lò bằng than. Khi đốt nhiệt độ trong lò lên đến hơn 1000 độ và kéo dài thời gian đốt từ 8-10 tiếng. Hỏi về phương pháp điều chỉnh nhiệt độ thì cụ nói: “Nhìn màu lửa biết nhiệt độ là bao nhiêu. Nếu chưa đủ nhiệt thì thêm củi vào để gia nhiệt. Cứ làm mãi thành quen…”. Sau khi ngừng đốt để thêm vài ba ngày cho nguội hẳn mới dỡ lò.

Chào cụ ra về, cháu Mý vào cửa hàng chọn mua 2 cặp tượng sứ có 2 cụ già, 2 bạn trẻ đang đánh cờ gửi biếu ông ngoại gắn vào bể cá. Cháu còn mua chú hươu cao cổ tặng chị kếu sắp đi du học ở Sing. Phải có đến hàng nghìn sản phẩm gốm, sứ phục vụ cuộc sống hàng ngày.

Đúng là “đi 1 ngày đàng, biết 1 sàng khôn”; sướng nhất là con gái tôi được tận mắt thấy quá trình làm ra 1 sản phẩm mà ngày nào cháu vẫn sử dụng.

(Phọt phẹt nhất là quên không mang máy ảnh nên… no pictures!).

Thứ Bảy, tháng 8 30, 2008

Ngaỳ 3, thăm đường

Tôi "mượn khô" được chiếc xe Isuzu Hi-lander 7 chỗ, nhưng phút chót suýt nữa thì không có ai đi cùng. V.Hoa phóng xe đến, cười cười đại ý là cuối tháng rồi không có gì "lệ quyên" nên ... thôi. Nếu đầy xe thì lệ quyên thật, nhưng kêu được nhõn một tên thì "chuyện nhỏ".
Nghe nói đường từ Nha Trang lên Đà Lạt mới này ngắn hơn khá nhiều so với bất kì đường nào khác, chỉ còn 130km, trong đó đèo dài 25km. Có rất nhiều lời khen cảnh trí từ đây.
Đường lên cao nguyên bám theo vách đá, len lỏi vạch vết trên rừng già mở ra những điểm nhìn đẹp.




Nhưng dấu vết tàn phá thiên nhiên, mới là khúc dạo đầu, vẫn còn tươi rói.


Và có cả dấu vết "trả đũa" của thiên nhiên đối với những người công nhân làm đường.







Hầu hết họ là người Thanh Hoá. Chúng tôi dừng xe và thắp cho họ một nén nhang. Bệ thờ sạch sẽ, đèn dầu và những nén nhang vẫn đang cháy.

Có những vách núi đá cây không mọc được, trên đó có những dòng chảy trắng xoá.





Có những vách núi dựng đứng bên vực sâu được trang sức bằng một dòng nước nhỏ.












Ranh giới hai tỉnh có chung con đường cũng là điểm cao nhất, trên 1500m.




Đi vào đất Lâm Đồng, thấy rõ trước mắt là cao nguyên, như lên tầng thượng của ngôi nhà.


Trời xanh mấy trắng là vậy mà vào đến thành phố Đà Lạt lại mưa. Nhìn ra ngoài các cháu học sinh mặc đồng phục áo len tím than, người lớn đủ loại áo rét. V.Hoa đoan chắc giờ là mùa mưa xứ này. Xem ra ở lại cũng chẳng có gì vui, ăn xong bữa trưa, hai thằng xuống núi ngả Phan Rang.
Đường đèo Ngoạn Mục so với mấy năm trước không có ngoạn mục hơn, nhất là trong mưa chạy sau cái xe tải. Không vượt được tại đường đèo hẹp, mà cũng tại không quen đi cái xe dầu số tự động.
Tháp Chăm Poklongarai ngay đầu thành phố Phan Rang Tháp Chàm. Nó mới được trùng tu và làm khu bảo tồn. Hết giờ vào thăm, tức là không bán vé và phòng trưng bày tranh ảnh đóng cửa nhưng vẫn được vào.
Những hoạ tiết và chi tiết xây dựng của các tháp này luôn làm ngạc nhiên. Nhưng có lẽ không đủ để kích thích lòng ham hiểu biết, hỏi han cặn kẽ.
Trong khi những người tập thể dục chiều bắt đầu vào thì khách vãng cảnh bắt đầu ra về, ánh sáng không còn nhiều để chụp ảnh.

Màn chụp ảnh cưới cho đôi trẻ có vẻ cũng sắp kết thúc. Khi nãy đã chụp với váy rồi, bây giờ là áo dài dân tộc. Tình cờ khi đi chụp vòng quanh tháp, thấy qua khuôn cửa tò vò cô dâu đang thay đồ. Hoá ra bên trong váy là quần jean, và chắc là với quần vàng áo dài cũng vậy. Hèn nào chỉ cần chạy vào trong tháp, che mặt chứ không cần che chân.
Lượn một vòng Ninh Chữ. Khu nghỉ không đủ giữ chân du khách, giá phòng ngày nghỉ lại cao. Về Tp Phan Rang, vào KS Ninh Thuận của UBND. Sạch sẽ, đầy đủ, để xe thoải mái mà lại có 2/3 giá so với ngoài kia.

Tư liệu mới từ Quế Lâm


Cao "tư lệnh" vừa có món quà cho thầy trò ta nhân 2/9 năm nay. Đó là 2 tấm ảnh kỷ niệm nhân 1/5/1967 tại Quế Lâm - giao hữu bóng đá và bóng chuyền của giáo viên 2 trường.

Vậy mà đã hơn 40 năm, theo thời gian trên ảnh hiện nhiều vết xước. Nhưng tình cảm giữa chúng ta ngày càng thêm sâu đậm.

Xin cảm ơn tấm lòng 1 người bạn!

Gặp bạn Khánh Tần

10g15 sáng nay điện thoại đổ chuông và hiện tên "Hải tám".
- Alô, anh nói chuyện với bạn anh này?
- Ai đấy?
- Tần đây, Khánh Tần đây?
- Khỏe không? Bọn Hải đến thăm ông à?
Vậy là sáng nay Bùi Việt Sơn k8 và Hải "tám" xuống trại Ba Sao (Hà Nam) thăm Tần. Tần khỏe, chế độ ăn uống tốt, lao động không quá khổ như xưa và buồn vì không được ra ngòai.
- Tôi còn 12 năm nữa ông ạ. (Nghe mà thương thằng bạn!). Nhưng mỗi năm được giảm án 1 lần.
- Thôi, cố gắng để được về sớm!
- Ừ! Tôi đã nhận được "Sinh ra trong khói lửa" tập 2 của ông gửi. Hôm rồi được thằng em gửi băng đám tang bà già vào, thấy anh em Trỗi các khóa đến đông mà cảm động. Lần đó cũng xin về nhìn bà lần cuối nhưng khó lắm. Cho tôi gửi lời thăm anh em!
Nghe kể chuyện đã về thăm lại Đại Từ và Quế Lâm thì Tần nói: "Có đọc trong Tập 2 về chuyến đầu các ông sang Quế Lâm. Tôi cố gắng để ra sớm rồi cùng các ông về thăm lại Quế Lâm". Nghe thằng bạn nói chuyện mới thấy sự khao khát tự do. Tôi hứa sẽ rủ anh em xuống thăm Tần.
Xin cảm ơn Hải và Sơn đã nối cầu cho tôi gặp lại thằng bạn Trỗi!

Thứ Sáu, tháng 8 29, 2008

Liu phiu đệ nhị nhật (ngày thứ hai)

Làm việc buổi sáng, tắm bãi đảo mini buổi chiều, tiệc tối chia tay. Thế là xong một ngày làm việc chính thức. (ảnh: vịnh NhaTrang, nhìn từ tầng thượng KS Yasaka SG-NTr)
Tối trước đóng vai pê-đê (theo nhận xét của công nhân massage bãi biển), chiều tối nay đóng vai ông già, nhường lặn biển, dù bay, ... cho bọn trẻ.
Đen bạc, tiệc tối có rút thăm trúng thưởng. Cứ ba người có một được cái gì đó. Mà chả được gì. Bù lại, đỏ tình ... bạn. (ảnh: bãi biển mini, nơi "họp" buổi chiều)
Tan tiệc, ngay gần đường Biệt Thự. Đến nhà Tr.X.Hoa 44/8. Nó không ở đấy, nhà bố mẹ, mà ở nhà riêng dưới Bình Tân. Số điện thoại cũng đổi. May cái có cô em, hỏi được số và hẹn ngày mai cậu đi Đà Lạt với tôi. Hai thằng đi, hạn chót chiều Chủ Nhật về lại. Rồi sau đó sẽ gặp lại Trỗi Nha Trang, các bạn và các thầy.

Thứ Năm, tháng 8 28, 2008

Nha Trang liu phiu ký

Hồi con gái tôi còn nhỏ, mẹ đi học xa, mỗi tối tôi phải đọc một mẩu truyện cho nghe. Nhiều truyện tôi không nhớ, nhưng riêng chuyện "Dế mèn phiêu lưu ký" thì tôi chắc chắn đã đọc. Bởi một lần con gái tôi nói "đi liu phiu". Trẻ con là thế, nếu nhớ không chính xác thì lập tức sáng tạo. Chứ không như bọn "có học", luôn phải bám vào một cái gì đấy người ta dậy cho.
Nói đi phiêu lưu ở Nha Trang thì những người sành điệu (như anh Chí nhớn) sẽ cười cho. Vì thế nên tôi mượn từ liu phiu của con gái.
Quả thực chuyến này có thể lại phải đi chơi một mình. Ngày mai là hết việc, sau tiệc tối. Ngày kia cho đến chiều Thứ Hai, trọn ba ngày tự kiếm chỗ đi chơi. Chắc tôi sẽ liên lạc và gặp Tr.V.Hoa. Nhưng chưa định, vì còn ưu tiên cho các chuyến đi.
Đã mượn được một chiếc Isuzu Hi-lander. Rất có thể tôi sẽ phải đi Đà Lạt một mình. Mấy ai đủ tiêu chuẩn bạn xấu, gọi là đi. Điểm đến không quan trọng bằng đường đi. Tôi sẽ đi đường mới, Khánh Vĩnh (Nha Trang) - Đa Chay (Đà Lạt). Nhanh thì đi về trong ngày, lâu thì Chủ Nhật trở lại Nha Trang. Hôm nọ nhầm, cứ tưởng đi đường mới lên Đà Lạt rồi đi đường An Khê về Bình Định. Ngẫm lại mới nhớ ra, muốn xuống đường An Khê thì phải chạy về Buôn Mê Thuột. Thôi, lên rồi xuống theo đường mới. Cùng lắm là về bằng đường đèo Ngoạn Mục xuống Phan Rang thăm mấy cái tháp Chăm.
Hi vọng có phóng sự du lịch liu phiu ký cho các bạn không có dịp đi.
(Nếu chán cái trò nhật ký đi đường này thì nói để tôi xoá nhé).

(tiếp theo) Chuyến thám hiểm thứ nhất:
Hơn 11h đêm tôi ra đường đi dạo. Gặp cậu bạn cùng phòng (báo Bưu điện) trước cửa KS đang chờ xe ta-xi để đến hội nhậu thứ hai. Các thành viên khác chả thấy đâu, mà chắc là không có trên phòng.
Con đường đi dạo ven biển làm tôi nhớ hao hao giống cảm giác bên bờ sông Liễu (Liễu Châu). Bởi một bên xa hơn chút là đường, một bên thay vì sông là biển, ánh sáng vừa đủ đi. Không phải lo nghĩ đến an ninh, đến gập ghềnh và "mìn" cộng với mùi chất xả thỉnh thoảng gặp ở các bãi biển khác. Nha Trang về đêm vẫn có người đi dạo, các đôi nam nữ tâm sự trên những ghế đá nhìn loáng ánh đèn thì thấy sạch; người ta không ngồi lên chỗ tựa, để chân lên chỗ ngồi như ở Hà Nội. Thỉnh thoảng có nhóm thanh niên ngồi nhậu dưới bãi cát. Trước cửa UBND là bãi rộng thường làm lễ hội truyền hình trực tiếp có nhiều nhóm nhậu cạnh hàng quán xách tay. Có cả nhóm nam nữ gẩy ghi ta phừng phừng, hát "Hà Nội vắng những cơn mưa".
Biển Nha Trang thật dài, không bị "bán" cho các dự án chiếm cứ đến nỗi chính quyền đang phải thương lượng lấy lại một vài chỗ cho người dân bản địa có chỗ tắm biển. Bên kia đường là dãy nhà số lẻ. Gần như toàn các nhà mặt tiền lớn. Đi hết nửa giờ mới từ KS Yasaka SG-Nha Trang (số 18 Trần Phú) đến số 78, Công an tỉnh Khánh Hòa. Không khí biển trong lành, đường đi thuận tiện, an ninh tốt.
Ngoại trừ trong suốt cả tiếng đồng hồ đi và về, các ông xe ôm bám theo mời chào "massage, bum bum, one hundred fifty dong" và các "nhân viên massage" dang tay chặn đường mời chào tất cả không dưới chục lần thì giờ đi dạo ấy là hoàn toàn riêng tư. Kết thúc vào 0h15, gặp mấy thanh niên cùng hội cũng vừa về đến KS. Chắc chắn giờ này mọi người vẫn chưa về đủ. May mắn khi ngồi gần cửa sổ thì có sóng wifi, vào mạng để gửi mẩu tin này. 1h10 ngày 29/8 rồi mà cậu cùng phòng đã về đâu.

Thứ Ba, tháng 8 26, 2008

XEM TRUYỆN Ở TRƯỜNG

Hồi trường mình lúc đã về Hưng Hóa, tôi không biết ai đã mang những cuốn truyện đó lên, nhưng là những cuốn như “Tam quốc diễn nghĩa”, “Thủy hử”, “Thuyết đường”… - hồi đó không còn xuất bản nữa - hay “Bồng lai hiệp khách”, “Hoàng giang nữ hiệp” - là những truyện kiếm hiệp nổi tiếng thời Tây, lúc bấy giờ đang bị cấm – toàn những truyện “mê ly”, hớp hồn cả bọn ở cái tuổi 14, 15. Mấy cuốn dầy như “Thủy hử” đều được tự động phân chia thành nhiều tập bằng cách xé ra từng xấp rồi truyền tay nhau xem.
Mà xem truyện cũng là 1 “mánh lới” lúc bấy giờ. Mượn được nó đâu phải dễ. Thường mấy đứa mượn được đàng hoàng hay tranh thủ xem vào giờ ngủ trưa, mà đứa nào “lỡ” ngủ mất là “toi”. Có đứa cẩn thận nhét xấp truyện xuống dưới gối, nằm lên cho chắc ăn. Và đấy cũng là việc chắc ăn cho tụi tôi, tụi chẳng biết làm sao mượn được mấy cuốn truyện đó cả. Chỉ đợi tụi nó ngủ rồi là mình lòn tay nâng đầu thằng bạn lên 1 cách nhẹ nhàng làm nhiều thằng lớ mớ cứ tưởng như đang ở nhà được mẹ nâng đầu khi ngủ vậy. Thế là tay kia rút ngay cuốn truyện ra. Thật mỹ mãn !
Nhưng tới lúc xem mới là “gay cấn”. “Thò” ra xem đàng hoàng nó đòi lại là xong. Chỉ có cách hay nhất mà cũng thích nhất là xem trong giờ học – không phải giờ Tự tu, vì lúc đó đứa nào cũng có thể tới “xem mày làm gì ?”. Vậy là áp dụng ngay “chiến thuật copy” bài khi kiểm tra để xem. Nhiều khi ham quá, quên là trong giờ, khoái chí cười lớn bị thầy phạt thấy mẹ luôn. Mà tranh thủ ngay lúc mình bị phạt, thằng bên cạnh lập tức “chôm” luôn cuốn truyện - Phải thủ tiêu tang chứng để thầy không biết ! Thế là “họa vô đơn chí”!
Đó là thượng sách, còn hạ sách thì có thằng đợi tối tới, sau khi tắt đèn bèn trùm chăn lại đốt lên 1 cái đèn dầu riêng đã thủ sẵn trước đó để đọc. Cực kỳ yên tĩnh và không ai biết. Vấn đề ở chỗ là nếu chẳng may ngủ gục thì bỏ mẹ ngay và ngoài ra còn phải thường xuyên thò mũi ra ngoài hít thở “không khí trong lành” vài cái rồi mới tiếp tục được.
Các xấp truyện được trao đổi với nhau sau khi xem xong không theo 1 thứ tự, lớp lang nào hết. Việc xem phần đuôi trước, phần đầu sau là bình thường. Không những thế còn xem lẫn lộn 1 lúc nhiều truyện khác nhau nữa là. Tuy vậy tất cả đều mê mải “nghiên cứu” không sót từ nào rồi lại mang ra bình phẩm, trao đổi. Tôi nhớ, có thằng còn đọc vanh vách không sai chữ nào tới vài chục trang liền của 1 cuốn truyện mà nó có cơ hội giữ lâu – trong khi mấy câu dẫn chứng ngắn ngủn cho bài tập làm văn thì sai lên sai xuống, học mãi vẫn không vô !
Thiệt là hồi đó xem mấy cuốn truyện rách và thiếu trang (mà ngày nay tụi nhỏ gọi là Chưởng “thọt”) sao thấy hay thế và chẳng thể nào quên được. Sau này tôi có cơ hội xem lại 1 số truyện đó, nhưng đều cảm thấy không còn hay như xưa (?) Hay tại ngày nay NXB in thiếu !

Về "Thịt lướng" (tập 2)

Chúng tôi đã tiếp tục post Tập 2 trên "Sinh ra trong khói lửa". Mời bạn đón xem!
Xin chân thành cảm ơn blog Bantroikhoa6 và bạn Hà Chí Thành "mèo" k6!
Và đừng quên xem các blog khác cùng hệ thống!

Thứ Hai, tháng 8 25, 2008

Chuyện quân ta đá ... hất quân ta

Đá này là đá hất lên.
Chả là BTH k6 là Phó TBT Báo Công Thương. Cậu đọc được mấy bài "đánh lộn" của JM và HMk6, khoái chí, nhặt luôn vào số 43 ngày 26/8/2008. Trong đó mẩu chuyện thứ nhất là của JM, mẩu thứ hai là của HMk6. Chuyện thứ 3 không có trong nội dung mà ở tên tác giả "Hữu Thành". Nhầm lẫn thế có chết người ta không chứ!

Tìm gặp bạn cũ k4

Văn Tuấn

Tin này đề nghị TQ tách hộ và thông tin cho ace biết. Tôi cung cấp một số thông tin ban đầu:
Được tin Hữu Cường cho hay có số ĐT và địa chỉ của một bạn Trỗi K4 đã 42 năm không có thông tin gì.
Sáng thứ bảy (23/8)tôi và HCường đã đi xe máy lên Băc Giang, sau khi qua cầu Bắc Giang và đi theo hướng dẫn là con đê dọc con sông 13 Km, được bạn đón đưa vào nhà cách đó 3 Km lượn giữa các đồi sỏi. Khi gặp nhau ở đường chúng tôi nhận ra ngay, nhưng ngược lại thì không.
Một căn nhà nhỏ khoảng 20 m2, lợp tôn xi măng (không có trần) giữa lưng chừng đồi với khoảng 300 gốc vải, dứa, mọi vật dụng trong nhà rất đơn sơ, cũ kỹ, trừ cái tivi cũ, còn lại các đồ điện đều do tự chế. một chiếc giường đơn bộ đội, một giá treo quần áo có treo cái túi và bộ quần áo bộ đội.
HV lên từ Trại Hòe, đi Đại Từ rồi cùng đi Quế Lâm sau đó xin về nước đi bộ đội, học ở HV Hậu cần và làm nghề sửa chữa thông tin, sau chuyển sang ngạch chính trị và về một cục năm 1991 hàm đại úy (hiện nay theo chính sách mới đang làm thủ tục để hưởng chế độ hưu trí).
Sau khi về ở nhà sửa Tivi, bây giờ thì không sửa nữa vì chẳng được bao nhiêu mà sức đã yếu. Hiện ở Bắc Giang với Tập 3, chỉ có hai ông bà với nhau.
Còn Tập 1 có một con trai lớn năm thứ 3 ĐH Bách khoa, Tập 2 có một con gái học lớp 12 đều ở Hà Nội.
Kinh tế hiện nay thu nhập chủ yếu vào nửa quả đồi trồng vải và dứa, ngoài ra chỉ có dăm cây ớt, chanh, vụ vải vừa rồi rớt giá chỉ thu hoạch được 5 triệu đồng.
HV đăng ký 18-19/10 sẽ vê HN gặp ace và cùng đi Đại Từ.
3 giờ chiều chúng tôi ra về, không mang máy ảnh đành phải xin một cái ảnh mới nhất (tôi sẽ chuyển ảnh cho HT) nhờ HT đăng lên để ace nhận mặt.

Hiện Hoàng Ngọc Việt ở Dương Đức, Lạng Giang, Bắc Giang.
ĐT: 0975 608 470

TTXVH

Việc đạo, việc đời - chuyện mà TM đã đưa ra

Quê tôi
Cha tôi sinh năm 1907 trong 1 gia đình công giáo tòan tòng vùng chiêm trũng Hà Nam. Cả thôn Đồng Chuối đều là giáo dân. Có lẽ do vùng quê Hà Nam không xa cửa biển Nam Định nên các nhà truyền giáo khi mới lên bờ có điều kiện tiếp xúc ngay dân chúng; nên có về đây bạn sẽ thấy làng nọ làng kia đâu cũng có tháp chuông nhà thờ.
Bất kể giàu nghèo khi sinh ra ai cũng được làm lễ rửa tội và đặt tên Thánh ở nhà thờ. Cha tôi có tên Thánh là Phê-rô. Phê-rô Phạm Văn Phu! Chúng tôi gọi bố là “cha” cũng vì lí do này. Và đến nay khi cần tra cứu, mở lại sổ sách rửa tội của nhà thờ từ đầu thế kỷ XX vẫn còn lưu giữ thông tin chi tiết. (Dịp vừa rồi, chúng tôi lấy được thông tin về 1 ông chú sinh ngày 20/8/1911, được đặt tên Thánh là Giu-se (lúc đăng kí vào sổ chưa có “tên gọi”) tại nhà thờ Tiêu Thượng và có cha đỡ đầu là ông trùm Thêm). Thế mới biết nhà thờ quản lí nhân sự còn hơn cả bộ máy hành chính của ta ngày nay(!).

Niềm tin của giáo dân
Bất kể theo đạo nào, Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Hồi giáo… con người ta đều phải có niềm tin.
Ông bà nội tôi rất nghèo, tòan phải đi làm thuê, thậm chí phải đi nhặt phân bán cho nhà có ruộng. Các cụ sinh được 4 trai, 2 gái. Đến đời chúng tôi chỉ biết có bác Pho, khi ông mất (năm 1948), cả trung đội Vệ Quốc đòan về đưa tang (chắc là vì là anh của ông tướng?); và bà cô tên Phạm Thị Hiền sống với ông bà nội ở Hưng Yên đến mãi sau này.
Nhà nghèo nên nay đây mai đó. Cũng may trong họ có 2 ông chú của cha là cha Phạm Khắc Dinh trông coi nhà thờ Phát Diệm và cha Phạm Khắc Thảo trông coi nhà thờ Hưng Hóa nên còn “có cửa” đi làm thuê mỗi khi ngày ba tháng tám, quá đói.
Dù giàu hay nghèo, mỗi khi đến bữa cơm, trước khi ăn dân công giáo đều làm dấu cảm ơn Chúa đã cho miếng ăn, manh áo. Năm 1926, sau vụ làm lọan ở Trường dòng Hoàng Nguyên, Phê-rô Phạm Văn Phu bị đuổi khỏi trường và gia đình bị “rút phép thông công”. Đây là 1 nỗi nhục lớn, ông bà nội tôi phải bỏ làng, tay bị tay gậy lang thang kiếm sống, hết Hưng Yên lại lên Hưng Hóa (Phú Thọ)… Vậy mà đến đâu mỗi khi nghe tiếng chuông nhà thờ lại xốn xang trong lòng, hướng về nhà thờ mà lầm rầm cầu Kinh.
Ngày mới hòa bình được vài năm, nhà tôi về ở ngã tư Hoàng Diệu-Cột Cờ. Chủ nhật nào ông tôi cũng chống gậy lững thững theo đường Hoàng Diệu lên nhà thờ Cửa Bắc. Thấy lạ, các chú bảo vệ liền đi theo. Tới nơi thấy ông đứng bên ngòai hàng rào làm dấu Thánh và nghe giảng đạo. Hết giờ lễ, ông lại lầm lũi đi về. Vậy là sau đến 30 năm mà cụ vẫn coi mình bị rút phép thông công, không là con chiên ngoan đạo nên không dám vào bên trong nhà thờ nghe giảng đạo.

Từ giáo dân trở thành kẻ vô thần
Năm 3 tuổi, cha tôi theo ông bà vào xứ Thanh. Suốt ngày ông bà đi làm thuê cho nhà thờ, còn cha tôi thì lêu lổng khắp nơi nên biết nhiều, nào là cầu Hàm Rồng, là tầu hỏa, tầu lu, là đèn khí đá, nào cá sông, cá biển… Năm lên 8, Thanh Hóa đại hạn hán nên ông bà lại bìu ríu đưa cả nhà về quê. Nhà nghèo cha tôi không đuợc đi học nhưng vì sáng dạ nên cứ học mót chúng bạn. Vậy là biết chữ quốc ngữ. Năm 1917, ông tôi phải đăng lính sang Pháp nên có chút tiền mà bà xin cho cha tôi được đi học. Học giỏi nên cha tôi được thầy giữ lại hầu hạ và “làm martketing” cho các nhà có tiền thấy thầy giỏi mà gửi con tới học.
Nhà thờ nào cũng có lớp dạy giáo lý cho con cái giáo dân. Cha tôi được học giáo lý, rồi vì tinh ranh mà được chọn làm chú bé phục vụ lễ chầu. Ngay từ bé đã tỏ ra nghịch ngợm, cha tôi từng lấy trộm khóa, mở tủ lấy bánh Thánh ăn thử; thấy chả khác gì bánh bán ở chợ. Còn nước Thánh có khác gì nước giếng có pha thêm tí muối cho có vị là lạ. Vậy mà để có miếng bánh và lọ nước Thánh giáo dân phải xì tiền cho cha.
Lớn lên khi được đi theo hầu các cha nhưng sự tinh nghịch không mất đi. Thậm chí hễ muốn ăn thịt chó là cha tôi tìm cách lấy ớt sát vào đít chó. Ớt nóng gây rát bỏng, chú chó kêu ăng ẳng rồi kéo đít lết khắp sân cho hết rát. Cha tôi báo cho ông trùm (người trông coi nhà thờ) là chó điên, phải thịt đi kẻo cắn chết người lại phải tội. Ông trùm sai người đập chết rồi làm thịt. Còn nếu muốn ăn thịt lợn trong chuồng thì nhét hạt đỗ vào tai lợn. Khó chịu chú lợn cứ lúc lắc cái đầu chả khác lợn ốm. Và thế là… Dần dần cha tôi còn biết nhiều cha ban ngày giảng đạo rất hay nhưng đêm đến không có gái là không ngủ nổi.
Năm 1925, cha tôi được gửi đi học Trường dòng la-tinh Hoàng Nguyên (địa phận Hà Đông), ra trường sẽ làm đến “thầy tư”, đi giảng đạo và có thể kiếm cơm sinh nhai. Tại đây, ông tổ chức cho anh em giáo sinh đêm đêm tập võ. Các cha phát hiện nhưng không cấm được vì luyện tập cho khỏe mạnh sau này còn ra làm thầy đi giảng đạo khắp nơi. Thấy cảnh bất công trong đối xử giữa các cha Việt và cha Tây, dịp lễ tết cha Tây được uống rượu sâm-panh, thịt cá ê hề thì cha ta ngược lại. Lại được tiếp xúc với “tân thư” - sách báo tiến bộ của Lương Khải Siêu, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh hay của nhóm Đông Kinh Nghĩa thục… được bí mật truyền tay nhau trong giáo sinh - mà trong ông nảy sinh tư tưởng phản kháng. Nhân dịp Noel năm 1926, ông đứng ra tổ chức cho 200 giáo sinh chống sự đối xử khác biệt này và đấu tranh thắng lợi. Dĩ nhiên tên ông bị ghi vào sổ đen.
Rồi tin cụ Phan Chu Trinh mất lan tới nhà trường. Sau khi dự lễ truy điệu cho cụ ở Thành Nam, cha tôi về tổ chức ở Hòang Nguyên. Chả khác gì nước đã tràn ly, đây chính là cái cớ cho nhà trường đuổi học. Cuối năm ấy, cha tôi lang thang giữa ngã ba đường, không thể về nhà vì tội “gia đình có con làm trái ý Chúa”. Nhưng đi đâu bây giờ?
Phải cầm Kinh Thánh đi dạy mà ông không hề còn niềm tin. Cũng qua sự giới thiệu của hương sư Vĩnh Trị mà cha tôi gặp Tống Văn Trân. Chính ông đã giác ngộ cha tôi và khuyên nên vào Nam bộ.
Từ tò mò, nghịch ngợm nhưng thông minh nên được tin dùng mà cha tôi đã tìm thấy những mặt trái, những bất công của đạo lý. Từ đó ông có tư tưởng làm phản. Cái mà Thanh Minh nói “ông đã chuyển từ duy tâm sang duy vật” bắt đầu từ ngày ấy...
Chuyện cha tôi theo cách mạng cũng được ghi nhận trong sách vở của nhà thờ. Đã từ lâu dân đạo quê tôi tự hào vì có ông làm việc đại nghĩa. Khi nói chuyện họ gọi cha tôi là “Ngài”. Đến nay các cha khi tâm sự cũng nói: “Cuộc đời của Ngài ghê lắm! Với nhà thờ có thể cũng có lúc ra những quyết định sai nên chuyện “rút phép thông công” của Ngài có thể sửa”. Nói vậy thôi sửa mà làm gì vì ông đã thành người thiên cổ hơn 40 năm; hơn nữa, người ta đã nhận biết việc làm đó là sai!

Thứ Sáu, tháng 8 22, 2008

VỢ CHỒNG LANG LIÊU THỜI NAY

Chiều nay đi làm về thấy trên bàn có hộp bánh trung thu, thấy lạ hỏi vợ mới hay vợ chồng Quốc Thái vừa mang cho khiến trái tim… và cả dạ dày mình bao xúc động.

Trỗi ta cứ lâu lâu lại xuất hiện “siêu nhân”. “Tình Trỗi” về già sao quá lâm ly? Trung thu năm ngoái đôi uyên ương- bạn mình đã vất vả , huỳnh huỵch cả mấy ngày trời làm bánh tặng anh em. Năm nay…

Thật sự cầm cái bánh của hắn mà lòng xốn xang cứ như Vua Hùng cắn miếng bánh chưng của Lang Liêu vậy. Hôm nay tôi vẫn chưa dám cắt bánh vì e lại phải phân tích ý nghĩa của món quà thêm hai trang giấy nữa.

Bánh của vợ chồng QT là “bánh sạch” theo đúng nghĩa đen, không dùng chất bảo quản , độ ngọt vừa phải chứ không ngọt gắt như bánh trên thị trường( làm thật ngọt để lâu hỏng), tỉ lệ nhân nhị, trứng, bột đậu xanh phù hợp có thể khiến chuyên gia dinh dưỡng TNgữ bái phục. Lại còn kèm thêm lời dặn “ đây là “bánh tươi” , nên ăn trong vòng 5 ngày đổ lại mới ngon”, quả là chu đáo. Đúng là một khái niệm mới, hóa ra lâu nay mình chén toàn “ bánh ươn” ngoài chợ, ngố thật.

Bên Út trỗi vừa có bài “ hộp bánh trung thu” của ĐN viết rất hay về cái tình của “người ăn bánh”, còn tôi lại muốn viết về cái tình của “ người làm bánh” mà sao khó quá . Hay tại mình chưa chén xong hộp bánh nên nguồn cảm hứng còn phiêu dạt nơi nao?

Rằm chưa tới mà sao tình người đã chan chứa trong bánh trung thu! Các bạn ơi, đến “ngày ấy” bên chiếc đèn lồng, bình trà mới pha, hộp bánh vừa mở, các bạn hãy chịu khó ngữa cổ lên trời, tôi đoan chắc rằng: Trăng năm nay sẽ tròn hơn trăng năm trước .

TM

Thứ Năm, tháng 8 21, 2008

Chữ Quốc ngữ

Từ những năm 1550, khi các nhà truyền giáo Châu Âu đầu tiên tới Việt Nam, họ đã bắt đầu dùng mẫu tự La-tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Cho tới năm 1615, các tu sĩ dòng Tên (Jesuit) Bồ Đào Nha bắt đầu truyền đạo ở Đàng Trong và từ 1617 họ khởi công la-tinh hóa tiếng Việt.

Người có công đầu trong việc này là linh mục Francis de Pina. Ông sinh tại Bồ Đào Nha năm 1585, đến giảng đạo tại Đàng Trong năm 1617 và sinh sống tại Việt Nam liền trong 8 năm. Lúc này, trụ sở của dòng Tên Bồ Đào Nha đặt tại Thanh Chiêm là dinh trấn của Nguyễn Phước Nguyên, nay là huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Bề trên của nhà dòng là linh mục Buzomi cũng là một nhà ngôn ngữ học và chính ông đã sáng tác một hệ thống văn phạm tiếng Việt.

Năm 1618, linh mục Francis de Pina là người đầu tiên dịch các bản kinh tiếng La-tinh sang tiếng Việt. Đến năm 1622, linh mục Francis de Pina hoàn thành một hệ thống ghi âm theo mẫu tự La-tinh thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Năm 1624, linh mục Pina mở trường dạy nói tiếng Việt và dạy viết chữ quốc ngữ tại Thanh Chiêm để dạy các giáo sĩ mới đến giảng đạo tại Việt Nam, trong số đó có Alexandre de Rhode (tên Việt là Đắc-Lộ).

Linh mục người Pháp Alexandre de Rhode (1591 - 1660) đến Việt Nam vào khoảng cuối năm 1624 cùng với 4 linh mục dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản. Ông bắt đầu học tiếng Việt từ một cậu bé khoảng 10 tuổi. Sau đó ông được linh mục Pina dạy tiếng Việt đến cuối năm 1625 thì chẳng may linh mục Pina bị tai nạn chết đuối tại bến cảng Đà Nẵng.

Alexandre de Rhode đã tập hợp và hệ thống hóa lại toàn bộ các công trình về tiếng Việt được La-tinh hóa bởi các người tiền nhiệm. Hai phần quan trọng liên quan đến chữ quốc ngữ là 2 cuốn tự điển Việt-Bồ và Bồ-Việt là công lao của 2 linh mục Bồ Đào Nha Gaspar de Amaral và Antonio de Barbose. Cả 2 ông đều đã chết sớm. Alexandre de Rhode là hiệu đính và bổ sung chứ không phải là tác giả của những cuốn tự điển quan trọng này, nhất là về phần Việt ngữ.

Trong vòng 20 năm, Alexandre de Rhode bị trục xuất đến sáu lần do các chính sách của triều đình lúc bấy giờ. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép. Ông mất năm 1660 ở Ispahan - Ba Tư, 15 năm sau lần cuối cùng bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam.

Đặc điểm của tiếng Việt là các dấu, trong đó có 4 dấu xuất phát từ tiếng Hy Lạp và dấu thứ 5 lấy từ tiếng La-tinh hoặc các tiếng Âu châu :

Dấu Sắc (accent aigu) dùng vào 1 âm đọc lên giọng mạnh, ký hiệu (´ ).

Dấu Huyền (accent grave) dùng vào 1 âm đọc giọng nhẹ, ký hiệu (` ).

Dấu Ngã (accent circonflexe) dùng vào âm đọc lên giọng rồi xuống giọng ngay, ký hiệu ( ~).

Dấu Nặng, vốn không phải là một Dấu mà là một Chữ trong tiếng Hy Lạp. Đó là chữ I (đọc iota) viết tắt, ký hiệu là (. ).

Dấu Hỏi, phát tích từ âm điệu của câu hỏi trong tiếng La-tinh hay Âu châu, ký hiệu (?)


Thứ Tư, tháng 8 20, 2008

TẢN MẠN VỀ CHA TÔI - NGƯỜI CHIẾN SỸ - NHÀ GIÁO - NHÀ BÁO - NHÀ KHOA HỌC

Anh em ta chắc không ai không biết chuyện "ngô bổ hơn gạo", "cá khô bổ hơn cá tươi", ... của thời cơm độn ngô ăn với cá khô. Hồi ở Hưng Hoá bọn ăn nhiều chúng tôi rất khoái các bữa trùng hợp "cơm ngô-cá khô". Cơm ngô và (đầu) cá khô, vì khó ăn, sẽ còn thừa và bọn tôi chỉ cần dồn đồ thừa ấy của vài mâm là đủ ăn đến no, với lí sự "động viên" của ông Từ Giấy. Nay Từ Ngữ có vài dòng tâm sự, tôi chuyển lên đây để chia sẻ với mọi người.

Thành ơi, Từ Ngữ đây, Ông già tôi hiện nay không khỏe lắm, tôi muốn viết mấy nét về Ông già tôi. Ông xem hộ, nếu không thấy phiền hà gì thì đưa lên blog, tôi muốn anh em góp ý kiến, cảm ơn nhiều và mong có nhiều ý kiến.
Từ Ngữ


Mấy năm gần đây trên các diễn đàn về dinh dưỡng - thực phẩm, chúng ta thiếu vắng các bài viết mang tính triết lý sâu sắc như “Thực đơn giết chồng”, “Một nụ hôn nối liền hai thế kỷ”... Tác giả của các bài viết đó là GS. Từ Giấy, Anh hùng Lao động, nguyên Chủ nhiệm báo “Vui sống” thời kỳ chống Pháp, nguyên Chủ nhiệm khoa Vệ sinh - Đại học Quân Y, Chủ nhiệm khoa Dinh dưỡng đầu tiên của trường Đại học Y khoa Hà Nội, Chủ nhiệm hai chương trình nghiên cứu trọng điểm của Nhà nước về “cải tiến cơ cấu bữa ăn” mang mã số 64D, 64-02. Ông cũng nguyên là đại tá, phó cục trưởng cục Quân nhu, Viện trưởng viện Nghiên cứu ăn mặc quân đội - đã góp phần nuôi dưỡng quân đội đánh thắng đế quốc Mỹ với các thực đơn cho các quân binh chủng, lương khô 701 - 702, gạo bảo quản 4 túi...
Vừa là học trò, vừa là đồng nghiệp, vừa là con út trong gia đình, tôi đã được Ông dạy bảo chu đáo, đồng thời tôi cũng có nhiều thời gian tìm hiểu Ông qua các câu chuyện vốn vẫn lưu truyền.
Ông ơi (tôi vẫn thường gọi Bố mình như vậy), người ta cứ gọi Ông là Ông “ngô bổ hơn gạo” là sao vậy? Ông cười và nói: “Thế không đúng sao, con phải hiểu là trong ngô giàu methionin (một loại axit amin) và chất béo hơn trong gạo nên ăn bánh đúc ngô thấy béo hơn bánh đúc gạo”. Thế có nghĩa là Ông chỉ nói về hai chất đó thôi ạ? Ông lại cười và bảo: “Không hẳn vậy, mà vì người ta chỉ nghe nửa tai thôi nên mới có tích ngô bổ hơn gạo”.
Ông ơi, thế còn Ông xuất thân từ gia đình bần nông sao người ta lại gọi Ông là “trí thức - tiểu tư sản”? Ông nói, ngày xưa lúc đất nước còn khó khăn nên người ta thường gọi là bữa cơm, người ta cũng thường mời “mời Bố Mẹ ăn cơm, mời Bác ăn cơm...”. Lúc ấy, vừa đi học ở Liên Xô về thấy bữa ăn của người Việt Nam thiếu nhiều chất đạm và béo nên trong các bài trình bày về dinh dưỡng và cải tiến bữa ăn, Bố thường nói cần phải có thêm thịt, cá, mỡ (bơ sữa) trong bữa ăn để bữa ăn cân đối hơn, góp phần cải thiện đời sống.
Ông ơi, thế tại sao Ông lại là “vua trốn họp” mà con thấy Ông đi họp cũng nhiều mà chủ trì các cuộc họp cũng nhiều? Ông nói ngay: “không đúng, cái nào cần họp vẫn phải họp”. Ông kể, họp là một phương pháp dùng trí tuệ tập thể để giải quyết công việc, tổ chức họp là một khoa học, họp phải mang lại lợi ích kinh tế. Sao lại vậy, họp có ra tiền đâu ạ? Ông lại giải thích, giả sử cuộc họp bàn về thất thu sau thu hoạch liên quan tới lĩnh vực vận chuyển, chế biến và bảo quản, nếu cuộc họp đưa ra giải pháp chỉ cần làm giảm tỷ lệ thất thu đó 1% - tính ra tiền thì nhiều lắm - thì chắc chắn cuộc họp đó là mang lại lợi ích về kinh tế rồi. Nhưng Ông vẫn nói thêm rằng thành phần cuộc họp rất quan trọng, không phải chỉ có người ra quyết định mà còn phải có người tổ chức thực hiện các quyết định đó...
Thế còn VAC, tại sao bác Nguyễn Ngọc Trìu (Chủ tịch hội VACVINA, nguyên Phó thủ tướng) lại tặng bằng khen “Người đề xuất danh từ VAC” cho Ông? Ông kể rằng cả cuộc đời Ông gắn với từ “ứng dụng”. Trong Ông, làm thế nào để biến một bữa cơm thành một bữa ăn ở một đất nước có tới 80% dân số làm nông nghiệp, làm sao có thực phẩm tại chỗ (để đảm bảo dinh dưỡng) luôn là câu hỏi. Ông quan trọng việc đưa được mô hình sản xuất VAC vào cuộc sống hơn là tranh luận VAC có từ đâu. Ông dùng lời của Eramus Darwin (1731 - 1802) để kết luận: “Trong nghiên cứu, vinh quang thuộc về người có khả năng thuyết phục để mọi người chấp nhận, biết đưa những phát kiến mới vào thực tế cuộc sống chứ không phải là người đầu tiên đã đưa ra ý kiến đó”.
Tôi nay đã là tiến sỹ (phun thuốc sâu cũ) và học hoàn toàn trong nước. Những năm 80 của thế kỷ trước khi Ông còn làm Viện trưởng Viện Dinh dưỡng, Ông luôn hỏi “con muốn học trên đại học ở đâu?”, Bố thì luôn muốn con học ở trong nước, Việt Nam là nước nghèo, bệnh thiếu dinh dưỡng là chủ yếu, nếu học ở Âu Mỹ thì rất tốt về phương pháp học nhưng việc ứng dụng các kiến thức học được lại khó, hay con trở thành trường hợp “đối chứng” đi. Vốn sợ thức ăn “tây”, ngày nhỏ thì lại nói ngọng thành ra “ngoại ngữ” kém nên tôi đồng ý làm “thực nghiệm” cho Ông. Và thế là một thày một trò (hai Bố con), và bài học đầu tiên Ông dạy tôi là “tự học”. Ông cũng dạy tôi cách đọc sách: đọc mục lục trước, đọc lời giới thiệu cuốn sách, cách đọc sách nhanh như đọc cách trang, đọc chéo... để chọn lựa các chỗ mình cần đọc, với các từ tiếng Anh thì chỉ các từ được lặp lại nhiều lần mới tra từ điển nghĩa của từ đó... Bố tôi vẫn kể không bao giờ Ông đánh trượt học sinh và cũng chẳng bao giờ Ông cho học sinh điểm mười vì Ông vẫn nghĩ ai cũng phải tiếp tục học và học mãi. Mà vì thế thì phải tự học thôi.
Giờ đây, mỗi sáng trước khi đi làm vào chào “Ông ơi, con đi làm đây”, Ông nằm đấy và chỉ gật gật đầu. Bác Nguyễn Thanh Bình từng kể rằng Bố “mày” bơi rất giỏi, trong chiến dịch Điện Biên Phủ bữa ăn thiếu chất đạm và Bố “mày” thường là người lặn xuống suối bắt cá để cải thiện bữa ăn đạm bạc cho “chúng tao” đấy. Ông có nhiều khả năng và sở thích như viết báo, dạy thống kê y học và từng là phẫu thuật viên tại chiến trường nhưng Ông gắn bó cả cuộc đời với ngành Dinh dưỡng. GS. TSKH. Hà Huy Khôi đã viết: “Phải chăng cái mong muốn có một viện nghiên cứu quốc gia để cải thiện bữa ăn đã hình thành trong Anh từ thủa đó, lúc Anh ở tuổi 30”.

Tàu bay thời Chín năm

(để hỗ trợ cho bài "5/8")
Khi xem các bài viết, hồi kí, hồi ức về thời “Chín năm”, chúng ta cảm thấy máy bay hồi đó có quá nhiều loại, hoặc dường như người viết bị lẫn lộn. Rồi tôi “phát hiện” ra rằng, mỗi loại máy bay quân đội Pháp sử dụng hồi đó đều mang nhiều tên gọi khác nhau (và mỗi tác giả đã sử dụng một tên, thậm chí 2 tên cho một loại máy bay). Nguyên nhân “sâu xa” là những người viết (những sỹ quan, hạ sỹ quan đạo quân lê dương Pháp) khi nêu tên một loại máy bay, thì họ nhằm nói về một sự kiện có liên quan chứ không phải để nói về máy bay, vì vậy, nó đã làm chúng ta lẫn lộn giữa các loại máy bay mà quân đội Pháp sử dụng.
Các tác giả đã gọi tên máy bay:
Theo tên thương mại của nước chế tạo máy bay;
Theo tên quân sự của nước chế tạo máy bay;
Theo tên do quân đội Pháp (người mua) “chuyển đổi”, “Pháp hóa”;
Theo tên lóng mà các sỹ quan không quân Pháp gọi;
Ngoài ra, không quân Pháp còn đặt tên riêng cho mỗi chiếc máy bay, và trong bài viết của các tác giả, có lúc họ gọi chiếc máy bay đã phục vụ họ bằng tên riêng này.
Qua xem bài viết, hồi kí, hồi ức (chỉ là các trích đọạn nằm trong tài liệu liên quan), tôi “tổng kết” được rằng, hồi “Chín năm” ở chiến trường Đông dương có những “loại” máy bay sau:
Đacôta, tức C47, tức Douglas DC3 (loại phổ cập ở Đông dương).
Skyraider, tức Douglas-A1 hoặc AD1 (hồi 5/8/1964, Mỹ còn xài A-6 tức AD-6)
Hellcat, tức F6F.
Privateer.
Beaver.
Crikê, tức Moran-500.
Bearcat, tức Grumman F8F.
Paket C119, tức(?) Faischild, Flying Tiger.
Curtiss, tức JN4 Jenny (máy bay đưa thư).
Zoulou (Zulu): gồm các chiếc Zulu Tăng gô, Zulu Bravo, Zulu Inđia, Zulu Giuyliét, Zulu Zulu, Zulu Golf, Zulu Charlie,…
B26.
Novembre: gồm các chiếc Novembre Hotel, Novembre Quebec, Novembre Kilo,…
Yanke: Yanke Bravo, …
Nêgrô: Nêgrô Mamađu, …
Toucan, tức Junker-52.
Bănggiô.
Coóc xe.
Henđivơ.
Spitfire (hồi xưa ô.Dương Văn Dương bị chiếc này bắn).
Duoglas DC9, tức MD95.
Briston.
Cuốctít Commanđô, tức C46.
C54.
Junkee JU87.
S-55 (trực thăng).
Sicorski (trực thăng).
Và có thể còn nữa.

Do chưa tra cứu nên tôi không biết chính xác các loại ở trên là các loại khác nhau hay trong đó có những cái chỉ vì khác tên gọi.
(tham khảo)

NHÂN ĐỌC “VỀ QUÊ” CỦA KQ

Việc địa phương đặt tên thánh cho cụ nhà và trân trọng cụ như một “Thành Hoàng” của quê hương gợi cho tôi suy nghĩ:

1/ Thành hoàng là người có công đóng góp cho quê hương , đất nước theo quan niệm dân gian. Tất nhiên “ Thành hoàng cộng sản”, được cả xứ đạo tôn vinh chứng tỏ họ đã “ đổi mới tư duy” đến mức nào – Chấp nhận “ thờ” một ông CS vô thần, miễn là ông ấy hy sinh vì nước , vì dân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Còn chúng ta “giữ vững lập trường” song cảnh giác với bọn “ lợi dụng tôn giáo” vẫn là điều cần thiết.

Tôi vừa đọc bài viết về Lễ cầu siêu 49 ngày cho bác Sáu Dân, tổ chức tại chùa Yên Tử. Mối quan hệ giữa Đạo và Đời, rất hay, các bạn tìm xem.

2/ Các cụ nhà mình đến với cách mạng từ nhiều con đường và xuất xứ khác nhau, nhưng đều xuất phát từ tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước rồi mới đến giác ngộ giai cấp. Trường hợp cụ nhà , vốn từ một giáo dân rồi trở thành CS nòi, tức là “hệ duy tâm” chuyển sang “hệ duy vật” ắt hẳn có câu chuyện dài đầy kịch tính...

Thực ra, nếu gắn kết cuộc đời - sự nghiệp của cha, mẹ anh em chúng ta, thì đó chẳng phải cái gì khác mà chính là những người đã trực tiếp góp phần làm nên sử Đảng và sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với tất cả sự khiêm nhường ta thấy niềm tự hào đó là chính đáng!Cho nên các bậc tiền bối- cha mẹ chúng ta giờ không phải của riêng ai mà cần được hiểu, được diễn đạt như một tài sản tinh thần chung cho tất cả mọi người.

Trên tinh thần đó, mong Kiến Quốc cho ae được “kiến” những bài viết tiếp theo.

TM

Chuyện về 1 cái cây

Nhân 19/8 năm nay, chả biết Nhà nước tổ chức những gì còn anh em chúng tôi rủ nhau đi trồng cây tại con đường mới mang tên ông già. Vốn là lính Học viện KTQS nên tôi rủ thêm anh em đồng nghiệp gần đấy ra góp vui. Khi tới nơi đã thấy anh Hà Trọng Tuyên “voi” k1 đèo sau xe chiếc bình ô-doa (đúng là đặc biệt vì lâu lắm mới thấy “cổ vật tưới rau” này!), còn chú em Giáo (dân ngụ cư ở phố mới, người báo tin “phố đã có tên”) thì mang tới xẻng và xà beng. Anh em Học viện bận họp nên chỉ có Giang “mù”, Thái “Hóa”, Mai Quý tới được. Mỗi người một chân một tay lóang cái là xong. Đúng cái giờ mà ông già cùng đồng chí, đồng bào chuẩn bị tấn công vào Phủ Khâm sai cách đây 63 năm thì chúng tôi đưa cây xuống hố.
Về việc chọn cây, có người khuyên nên chọn cây to hay đặt Cty Công viên cây xanh, còn chúng tôi thì lắc đầu: cây trong sân nhà mang đi trồng mới ý nghĩa. Chả là nhà tôi sân rộng, chim chóc tứ xứ về phố hay dừng chân, trên cành cao hót véo von rồi… có chú chim non nho nhỏ (chào mào chẳng hạn!) ăn phải quả bồ đề tận đẩu tận đâu rồi về đây ị xuống sân (may không trúng đầu ai!). Gặp đất, hạt bồ đề nảy mầm rồi vươn lên thành cây, nay cây lớn lên tới hơn 2m. Cây được đánh sẵn lên chậu chờ ngày lên đường. Cũng may nhét vừa khéo vào xe Zace.
Vậy là cây ở 99 Trần Hưng Đạo, quận Hòan Kiếm được chuyển tới trồng tại phố mới ở quận Cầu Giấy, 1 đầu phố gối lên đường Hoàng Quốc Việt, 1 đầu gối lên đường Tô Hiệu, không xa Nguyễn Phong Sắc, Trần Đăng Ninh, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Sâm… Vậy là các cụ lúc nào cũng vẫn gần nhau!

Thứ Hai, tháng 8 18, 2008

CHUYỆN BUỒN

Nhân đọc bài của aJM về việc “Quân ta chiến đấu với quân mình”, tôi nhớ tới hoàn cảnh đã từng trải của mình, xin kể ra đây để AE cùng thông cảm.

Trong thời gian tôi làm việc ở Liên doanh, lẽ tất nhiên như tất cả các doanh nghiệp khác, việc “trình bẩm”, “nhờ cậy”, “xin xỏ”…các cơ quan Nhà nước là không thể tránh khỏi. Vì công việc, tôi cũng đã từng phải “đánh đu” với các ổng nhiều lần, song kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, mỗi khi trao đổi, bàn bạc với các cấp lãnh đạo, nếu có ít nhất 1 thằng nước ngoài thì công việc bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao hơn (?).

Do vậy, mỗi khi “có chuyện”, tôi thường kéo 1 thằng Tây (là cấp dưới của tôi) cùng đi. Trước khi gặp các “sếp” tôi đều “mớm” cho nó (vì nó đâu có hiểu hết công việc) : mày phải nói thế này, thế này…còn cái đó, cái đó …thì không nói, cái này, cái này…thì tao nói, vân vân. Nói chung là “kịch bản” phải được giàn dựng trước bởi vì các sếp VN thích nghe mấy thằng nước ngoài nói tiếng xí xa xí xô rồi có phiên dịch lại, còn thằng tôi chẳng qua chỉ là 1 thằng kỹ sư quèn, nhân viên hạng bét của Sở thuộc UBND TP thì quá xa mới nói chuyện được với mấy ổng ! Mặc dù mấy thằng Tây đó là thuộc cấp của tôi !

Vậy đó, tôi đã phải dẹp cái “sĩ” của mình đi để được việc. Nhưng cuộc sống đâu có đơn giản như vậy. Mấy thằng Tây, sau vài lần diễn kịch hiểu ngay ra rằng : trước mặt các quan chức VN, nó là “sếp” của tôi ! Mặt khác, các sếp VN cũng luôn luôn nói : Ông…. nói thế này, thế kia để thằng Thành làm cái này, cái nọ… Và thế là công việc điều hành trong Công ty lập tức có chuyện “rối loạn” liền. Lại phải giải thích, lại phải thuyết phục, nói nguyên tắc, kỷ luật….Ôi, hết sức mệt mỏi mà hiệu quả công việc nhiều khi chẳng đi đến đâu mới tức chớ!

Như vậy là “quân mình chơi quân ta” nên “quân ta mới chiến đấu với quân mình”. Đúng là chuyện thật đáng buồn. Biện pháp giải quyết nỗi buồn này là : say good bye. Vứt mẹ nó đi hết là xong!

Về quê

Sáng chủ nhật, anh em tôi cùng Giang “mù” và em Khánh đưa huân chương và tượng của ông già về quê. Tiêu Động quê tôi nhiều anh em đã đến. Đây là làng đạo tòan tòng thuộc đồng chiêm trũng, năm xưa có câu nhại rằng “quê hương cầu tõm” hay “9 củ thành 10”. Nhưng đã hết lụt lội từ đầu những năm 1970.

Dân làng tôi tự hào là “đất có 1 không 2, phát cả Thánh lẫn Tướng”. Vì có cụ Phê-rô Nguyễn Văn Hiếu được Vatican phong Thánh tử vì Đạo năm 1900 (cụ hy sinh ở Ninh Bình khi đấu tranh với triều đình trên đường truyền giáo!). Ông già tôi thì mọi người đã biết. Cụ gần với dân nên chúng tôi thống nhất với địa phương không làm ầm ĩ, không mời quan chức tỉnh, huyện. Dân là đủ, vậy mà bà con ngồi kín cả bờ ao quanh Nhà tưởng niệm. Nhưng cũng đủ lệ bộ, chào cờ, đọc tiểu sử… Tôi có bài đít-cua ngắn cảm ơn bà con và quê hương. Gia đình cũng có chút quà cho địa phương.
Cánh Nam Định về có bà chị họ cùng chồng là anh Vọng (trước lái xe cho ông già Bùi Chuơng) và thầy Bùi Đức. Sau khi thắp hương trước bàn thờ và bia đá, chúng tôi sang thăm nhà thờ và nói chuyện với ban hành lễ. Nhà thờ quê tôi xây từ đầu thế kỷ XX, đẹp nhưng không đủ chỗ cho dân hành lễ. Nay được “bề trên” cho xây to hơn. Dự tóan 4 tỷ nhưng chắc nay phải gấp đôi. Với nguyên tắc làm đến đâu dùng đến đấy. Có hỏi xem “bề trên” đã cho bao nhiêu thì biết muốn xin đuợc phải làm trước mới có cớ để xin. Từ khi khởi công, chúng tôi cũng có những đóng góp vì chí ít ông già cũng được làm lễ đặt tên Thánh ở nơi này. Phê-rô Phạm Văn Phu!
Trưa, có bữa cơm rau dưa với đại diện họ hàng và bà con. Chả phải khen nhưng quả thật RTC quê tôi quá ngon, hơn cả ở LHXNTC Bờ Đê và cầy tơ 7 món ở Sài Gòn. Dù trưa qua nắng nhưng thực khách dọn gần hết...

Thứ Bảy, tháng 8 16, 2008

ĐỜI DOANH NGHIỆP - QUÂN TA CỨ PHẢI “CHIẾN ĐẤU” VỚI QUÂN MÌNH


“Lại một cuối tuần đã đến. Dù ai cũng mong muốn “bao giờ quẳng gánh lo đi” nhưng thực tế cuộc sống vẫn cứ tác động vào chúng ta từng giây, từng phút. Khó có thể vô tư hoặc vô tâm được. Xin lỗi lại kéo các bạn “trở lại mặt đất” vào cuối tuần”.
Dương Minh

Mặc dù phải rất tiết kiệm trong mọi chi phí nhưng tôi đã đặt báo dài hạn tờ “Sài Gòn giải phóng” và “Lao động” để đáp ứng nhu cầu công tác. Đầu giờ làm việc buổi sáng lướt qua nội dung của hai tờ báo này đã thành thông lệ trong công việc của tôi.
Một buổi sáng cuối tháng 7 vừa rồi tôi giật mình khi gặp những phát biểu của hai người được coi là “chuyên gia” là P.T.N và T.Q.H đã được viết trong bài “Khởi đầu làn sóng rút lui sản xuất?” của phóng viên T.H.T: “Trong các liên doanh chỉ có Samsung là đầu tư nhà máy sản xuất tại VN một cách bài bản nhất. Còn các liên doanh khác hầu như chả đầu tư công nghệ gì” và “Các liên doanh với JVC-Panasonic sẽ đi theo hướng Sony, Samsung có thể mua lại cổ phần trong liên doanh. Cơ sở cho dự đoán này là sản lượng của JVC-Panasonic gần đây sụt giảm”.
Bốn tập đoàn điện tử lớn nhất của Nhật Bản là Sony, Panasonic, Toshiba và JVC là đối tác liên doanh với Tổng công ty tôi, trong đó Panasonic và Toshiba là đối tác trực tiếp của công ty tôi. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu, các tập đoàn điện tử Nhật Bản đều phải đầu tư vào dây chuyền sản xuất, chuyển giao công nghệ và đào tạo cho cán bộ, công nhân viên Việt Nam đầy đủ những yêu cầu ngặt nghèo của họ. Toshiba sau khi hết thời hạn hợp đồng liên doanh 10 năm – là thời hạn tối đa mà NN quy định, đã chuyển thành 100% vốn nước ngoài từ tháng 10/2006. Panasonic tiếp tục duy trì liên doanh dưới hình thức công ty TNHH hai thành viên. Trong 3 năm vừa qua (2005-2007) tất cả các chỉ tiêu sản lượng, doanh thu, lợi nhuận của Panasonic tăng trưởng rất mạnh, đặc biệt năm 2007 đạt hiệu quả cao nhất trong hơn mười năm hoạt động.
Những nhận định, phân tích của các “chuyên gia” rõ ràng là bịa đặt, là sai sự thật và không khác gì “bãi nước bọt khổng lồ” nhổ vào mặt các tập đoàn điện tử Nhật Bản, Tổng công ty và Công ty tôi nhưng đã được đăng vô tư trên một tờ báo lớn.
Tất nhiên là phải có ý kiến bảo vệ lẽ phải, phê phán những luận điệu nhố nhăng vô trách nhiệm làm ảnh hưởng nặng nề đến uy tín của công ty, thương hiệu và đặc biệt là mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp Nhật Bản. Chúng tôi đã hai lần mail ý kiến phản hồi đến Báo nhưng không ai đếm xỉa gì đến ý kiến của doanh nghiệp. Sau hơn mười ngày chờ đợi, chúng tôi phải làm công văn với đầy đủ thủ tục chữ ký và dấu má để gửi lên cơ quan cấp trên nhờ can thiệp, phân xử.
Công việc đầu tiên được giải quyết là cậu phóng viên phải giải trình nội bộ. Theo nguồn tin riêng chúng tôi được biết cậu ta vẫn rất ung dung vì được “chuyên gia” T.Q.H bảo lãnh với câu trả lời “Cái thằng đó là linh quèn, phọt phẹt của anh ngày xưa, lo gì!”. Sự việc đang chờ ở mức này.
Đời doanh nghiệp bây giờ cú phải như vậy đó: quân ta suốt ngày lo “chiến đấu” với quân mình. Cái đúng dù có là 1.000% nhưng để bảo vệ được sẽ rất gian truân, trong khi những cái bậy bạ thì nhởn nhơ, thách thức!

Gặp bạn cũ ở Nha Trang

Đầu tháng 8/2008, tôi có việc vào Buôn Mê Thuột. Trong đời đi khá nhiều nhưng lần này cảm thấy thực sự náo nức trong lòng. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên được đặt chân lên mảnh đất Tây Nguyên, thứ nữa hy vọng gặp lại Y Nguyên, người bạn mà từ hồi rời trường Trỗi chưa một lần gặp lại.

Buôn Mê Thuột để lại trong mình những ấn tượng tốt đẹp. Cảm giác này chắc bạn nào đến Tây Nguyên đều nhận thấy. Chỉ tiếc là không liên lạc được với Y Nguyên: máy luôn báo ngòai vùng phủ sóng (mặc dù Tây Nguyên đã phủ sóng gần như 100%). Chắc ông bạn đi vắng hay tắt máy? Theo kế họach sẽ đi tiếp Đà Lạt nhưng đến phút cuối lại thay đổi, quay xuống Nha Trang.

Nhắn một lúc 3 tin đến Kíên Quốc, Lê Bình, Vinh "sái" hỏi địa chỉ các bạn k5 ở Nha Trang (vì sợ có ai đó “không thèm” đọc tin nhắn!). Thật vui khi nhận được tin nhắn từ cả 3 bạn. Chứng tỏ đường dây liên lạc của khóa ta luôn thông suốt. Tại Nha Trang, tôi gặp lại Mai Trung và Thạnh “mì”. Gần 40 năm rồi, vẫn nhận ra Mai Trung với dáng vẻ rổn rảng, còn Thạnh “mì” thì vẫn ít nói, chỉ tủm tỉm cười, chẳng khác xưa là mấy. Tiếc rằng (lại tiếc!), không gặp được thầy Tiến “địa” vì thầy đi Sài Gòm chưa về.

Ngày hôm sau (8/8), Đôn Hà từ Quy Nhơn về qua Nha Trang, thế là 4 anh em lại có dịp hàn huyên vui vẻ. Vui đến nỗi quên béng Olympic Bắc Kinh, lỡ mất dịp chiêm ngưỡng buổi lễ khai mạc hoành tráng 4 năm mới có 1 lần. Tuy nhiên mình lại không thấy tiếc (đến đây thì không có chuyện "chỉ tiếc" nữa) vì gần 40 năm có dịp gặp lại bạn xưa.

Nhân đây xin thông báo với các bạn k5 miền Bắc là Đôn Hà “có nhời” mời các bạn dự đám cưới con trai vào 17g ngày 6/9/2008 tại nhà hàng Saigonso 234 Ngô Tất Tố, phường 22, Bình Thạnh, TpHCM. Hiện mình đang giữ xấp giấy mời, ai đi được thì alu.

Mời các bạn ngắm dung nhan của 4 thằng bạn già tại Nha Trang, không lại bảo tôi bốc phét! (Trái qua: Bác sĩ hồi sức cấp cứu Mai Trung, có phòng mạch riêng; moa; Đôn Hà lính thủy tuột xích và sắp thành bố chồng và Thạnh "mì" đã nghỉ hưu!!!).

Bùi Chương k5 (buichuongpolymer@yahoo.com.vn)

BBT : Xin cảm ơn tay bút mới của blog Bantroi! Tuy nhiên có nhắc nhở: lần sau đừng viết chữ không dấu, tránh làm khổ BBT phải phiên dịch!!!


Thứ Năm, tháng 8 14, 2008

KỶ NIỆM VỀ GỐC ĐA HIỆU BỘ

Dương Minh

Chúng ta đang có những ngày sôi nổi với An Mỹ. Những kỷ niệm đầy ắp với An Mỹ đang thức dạy trong mỗi người làm cho chúng ta có những xúc động chung – riêng. Ở tận Sài Gòn xa xôi tôi chỉ biết dõi theo các bạn qua BanTroi, qua từng dòng tin, từng tấm ảnh để nhớ lại những ngày tháng ấy…
Tôi lên Trường Trỗi đầu năm học lớp 8. Lúc đó K4 đã ở phía rừng (bây giờ xem bản đồ của KQ mới biết khu đó gọi là La Hang). Những kỷ niệm Đồng Cháy, Trại Cau… tôi chỉ được biết qua câu chuyện của bạn bè K4 – những người lên Trường từ ngày đầu thành lập. Dù chỉ có nửa năm ở An Mỹ, nhưng cũng như các bạn, kỷ niệm ở đây quá nhiều, vì với tôi đây là lần đầu tiên sống tập thể, ở trong rừng, là thiếu sinh quân… Nhưng những chuyện đó chắc ai cũng trải qua cả rồi, tôi chỉ kể kỷ niệm riêng thôi.
Một sinh hoạt vui nhất sướng nhất khi ở An Mỹ là đón người nhà lên thăm vào cuối tuần. Dù đang thời chiến với chiến tranh phá hoại đã ác liệt, khu vực Gốc Đa cuối tuần vẫn sầm uất như phiên chợ Tết. Với riêng tôi nó là ngoài cuộc. Khi đó bố tôi ở chiến trường, mẹ tôi sơ tán ở Thiên Thai, Hà Bắc, tôi xác định rằng mẹ đến đây thăm tôi chỉ là giấc mơ!
Một chiều chủ nhật, khoảng 4 giờ, thầy Bân gọi tôi lên “Em có người nhà lên thăm, đang ở Nhà khách Hiệu bộ. Em có thể ngủ lại đó sáng mai mới về. Nhớ về đúng giờ học đấy nhé”. Tôi sướng run người vì có lẽ nào giấc mơ lại thành sự thật!
Tôi chạy như điên ra Gốc Đa, dừng lại và nhìn về phía Hiệu bộ, thấy một người phụ nữ đang dò dẫm lội qua Suối Chì. Đúng mẹ rồi, tôi chạy ào xuống, mẹ tôi cũng băng ào qua suối. Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau bên bờ suối, tất nhiên cả hai đều khóc. Để đến thăm con, mẹ tôi phải đi từ tờ mờ sáng bằng đủ mọi phương tiện, và chặng cuối là cuốc bộ từ Đại Từ vào An Mỹ. Khi băng vội qua suối mẹ tôi bị văng mất một chiếc dép, sáng hôm sau bà đi nhờ xe ra Đại Từ với đôi chân trần, mua dép mới để đi tiếp chặng đường trở về Thiên Thai. Sau đủ thứ chuyện, tôi chợt nhớ ra một điều và hỏi mẹ “Sao mẹ không đợi con ở Nhà khách mà lại qua suối?”. “Thấy mẹ có vẻ sốt ruột muốn gặp con, mấy cô chú bảo cứ ra gốc đa, thể nào con cũng đến đó”.
Một chủ nhật khác, cũng phải đến 2 giờ chiều tôi lại được thầy Bân gọi lên thông báo “Em ra Hiệu bộ, người nhà em đang chờ ở đó. Nếu cần gì em nhờ các thầy ở Hiệu bộ gọi về đây cho thầy”. Tôi cũng chạy như điên ra Gốc Đa và tự hỏi “Ai đến thăm mình nhỉ?”. Lần này chưa đến Gốc Đa tôi đã thấy cậu tôi đang chờ ở đó.
Cũng phải viết thêm đôi dòng về cậu tôi. Mẹ tôi có một người anh, một người chị và một người em trai. Bốn anh chị em thì mẹ tôi và cậu tôi thoát ly công tác. Cậu tôi vào bộ đội, tham gia chiến dịch Điện Biên. Hòa bình ông xung phong ở lại Tây Bắc. Quyết theo học nghề y vì theo ông “Vừa giúp đời vừa giúp gia đình, bè bạn được nhiều nhất”. Khi tôi ở An Mỹ, ông là y sĩ công tác ở Bệnh viện Thuận Châu, đã ngoài ba mươi vẫn độc thân và đang theo học bác sĩ chuyên tu ở Yên Bái. Trước khi nghỉ hưu ông là Chủ nhiệm Khoa ngoại, Bệnh viện Đống Đa. Cách đây hơn mười năm ông đã mất ở tuổi 65 vì bị căn bệnh nhồi máu cơ tim.
Để đến thăm cháu, cậu tôi thức dạy từ nửa đêm làm thịt một con gà, nấu một nồi xôi rồi đạp xe từ Yên Bái sang Thái Nguyên. Hai cậu cháu ra sườn đồi vừa ăn xôi gà vừa nói chuyện. Lại chợt nhớ ra một điều, tôi hỏi cậu “Sao cậu đợi cháu ở đây?”. “Mọi người bảo cậu cứ ra gốc đa mà đợi, thể nào cháu cũng đến đây!”.
Gốc Đa An Mỹ sống mãi trong ký ức của tôi. Vậy mà hơi bị … buồn, Gốc Đa đã “hy sinh” rồi!

Thứ Tư, tháng 8 13, 2008

Bổ sung một số hình ảnh về Đại từ

Với An Mỹ từ cái nhìn khác!

Tôi, Từ Ngữ, Tường Vân k6 và Thuý (con thầy Tuấn) đi xe Suzuki-Vitara của Ngữ chở thêm 3 thùng sách của Bộ trưởng Nhân tặng các thầy cô để chuẩn bị bài giảng.


7g10 xuất phát, đi đúng tốc độ. Tới Thái Nguyên thấy đường tắt đi Bắc Kạn đã mở, rẽ liền. Đường cực tốt, dài quãng chục cây. Qua mỏ than Núi Hồng thấy đúng là “Lù lù một đống đen sì/ Đến gần thì hoá rằng thì là… than!”. Hội quân ở ngã ba Bờ Đậu, lại vào uống nước và ăn bánh gai ở quán quen.

Xe Mẹc 16 chỗ đi trước vì có “tài” nghề, anh em tôi túc tắc theo sau. Đã về lại 2 lần nhưng chưa có dịp thăm Suối Chì, vội ghi lại hình ảnh “khu vực tiền tiêu của nhà trường” cho anh em k5 chiêm ngưỡng. Hàng quán sát đường, suối Chì đã có cầu bê-tông bắc qua. Điện kéo vào tới tận các gia đình và 90% số hộ được dùng nước sạch từ núi đưa về (điều hiếm có so với các xã trong tỉnh).

Khi qua Trại Cau, Tường Vân không nhận ra vì thay đổi quá. Vân còn nhớ con đường tắt ruộng từ Trại Cau sang Trại Bưởi. Buổi học đầu khi 5 đứa con gái vừa lội suối tới chân đồi, ngẩng đầu lên thấy bọn con trai đứng lố nhố 1 đám nhìn xuống. Cô bảo: “Các bạn ra đón chúng ta đấy!”. Vừa nghe cô nói đã thấy bọn con trai chạy biến, chả hiểu vì lí do gì(!).

Đường từ Trại Cau vào Gốc đa đỡ xấu hơn. Được biết ngày 11/8 đã mở thầu thi công 10km đường từ huyện về. Hy vọng năm sau đi xe sẽ không còn bị sóc. Xe Mẹc đi trước, xa xa là dãy Tam Đảo. Rẽ Gốc đa về trung tâm xã. Qua ngầm, xe Mẹc bị chết máy vì nặng quá. Anh em phải xuống đẩy. Từ Ngữ chống nạnh cười khẩy: “Lâu” vấn đề vì xe tớ có những 2 cầu.

Chuyện đón tiếp anh em đã hay. Xã còn 441 hộ nghèo (chiếm 31% tổng số) nên việc làm của các bạn k4 rất có ý nghĩa. Riêng tôi nhận nhiệm vụ giao sách cho các thầy cô nhưng không có thư của Bộ trưởng (lí do: sách không thật nhiều mà viết thì kì kì!). Lúc trao quà xong, nhắn máy báo tin đã hòan thành nhiệm vụ, bạn đáp lại: Cám ơn anh!

Rồi cũng đến lúc chia tay, bạn bè, thầy trò bịn rịn. Khi về không theo đường cũ mà đi đường qua xã Văn Yên. Vòng vèo thế nào quái lại ra thị trấn Đại Từ. (Chuyện này cá cược với Ngữ, tôi bị thua chục khìn).

Lần trước Hữu Thành đã post bản đồ chụp từ vệ tinh cho mọi người, nhưng nhiều màu xanh quá khó tọa độ. Nay vẽ tay lại để các bạn dễ hình dung.

Một ngày vui và ý nghĩa!


(À, trong khi trao đổi với cán bộ địa phương được biết thêm sau ngày ta rút quân cuối 1966, máy bay Mỹ đã tới ném bom. (Chắc là bị lộ đội hình?). Nhân dân cũng tổn thất, gần chục người chết. Đúng như Hữu Thành nói chúng ta luôn cảm thấy như còn một món nợ chưa trả!).


Tin thêm:
Năm 2000 khi lên dự lễ Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho xã Mỹ Yên, anh Giao k2 cùng Phan Đình Nhân k6 có đến thăm gia đình LS Đỗ Tiến(?) là học sinh k6 Trỗi. Hôm vừa rồi anh Giao có xác nhận việc này. Vậy BLLk6 khẩn trương tìm hiểu và truy cập tư liệu cho BBT sách Tập 3. Như vậy số LS của trường Trỗi là 30 chứ không phải 29!

(Ghi chú thêm của HT).4SG có hỏi từ Mỹ Yên có qua được Ký Phú không. Xin gửi lên đây mảnh bản đồ giao thông có liên quan. Lối đi thông thường là HN-Ba Hàng (Phổ Yên)-Thái Nguyên-Bờ Đậu-Đại Từ-Mỹ Yên (trên bản đồ là La Hang).
Đoạn Đại Từ-Mỹ Yên bây giờ rất xấu. Vừa rồi chúng tôi đi về theo đường Mỹ Yên-Xóm Giữa (chính là hoặc gần Ký Phú)-Đại Từ.
Thực ra có thể đi Xóm Giữa-Tân Khang-Quân Chu-...-Ba Hàng để về HN. Nhưng vì đường dài vài chục km, tốt hơn đường xấu nhưng xấu hơn đường tốt, lại có ngầm nước lớn nên không đi.

Thứ Ba, tháng 8 12, 2008

k4 trao quà cho xã Mỹ Yên

Xuất phát đủ người lúc gần 8h sáng, 9h30 xe lớn hội quân với xe Từ Ngữ chạy trước ở Bờ Đậu, ngã ba rẽ vào Đại Từ.
Đến gần 11h cả đoàn đã tới UBND xã Mỹ Yên. Tuy là việc của k4 nhưng cũng là một dịp vui chơi (tốn phí mà không có thưởng) nên các khoá đều có người tham gia. k1: anh Triệu Hùng, k2: anh Giao, k5: anh Kiến Quốc, k6: chị Tường Vân, k7: các chị Hoà Bình và Việt Hằng, k8 anh VinhNQ cộng với 8 đại diện k4 (ĐC, HH, T.Ngữ, VTM, HP, V.Tuấn, Q.Dũng, HT). Ngoài ra còn có EGk9, GM và cô Thuý con hiệu trưởng D.H.Tuấn
Nước suối Gốc Đa tuy không to nhưng xe nặng, đá suối bị bánh động lực hẩy văng ra nên xệ đít, anh em được một phen lội xuống đẩy. Vụ này chắc chỉ có KQ chụp được ảnh khi đứng từ trên cầu dành cho xe máy.
Lịch làm việc đã được Xã bố trí lại, không đợi đến chiều, mà đoàn đến lúc nào thì trao quà khi ấy. Sau đó chỉ còn việc ăn trưa và giải tán. Một phần vì bí thư Quang buổi chiều phải lên họp Hội đồng Nhân dân Huyện, có nội dung bầu cử. Một phần vì cũng không có cuộc họp của các trường với phụ huynh như cũ. Phía ta thì thế nào cũng được, ngay từ đầu, trao quà vô điều kiện, trách nhiệm còn lại là của Xã với "con dân" của mình thôi.
Tôi đại diện cho k4 tuyên bố trao toàn bộ số quà gồm đồ chơi cho trường mẫu giáo và hơn 4300 quyển sách giáo khoa (trong đó có một số kha khá là vở bài tập dùng một lần) cho quỹ sách dùng chung của các trường tiểu học và trung học. Sau đó anh Từ Ngữ đề nghị Xã ghi lịch làm việc 8h sáng ngày 18/10 sẽ có buổi tập huấn về dinh dưỡng như một phần quà khác của k4 cho Xã.
Chị VT.Mai đại diện k4 trao quà cho trường tiểu học.
Chị VH.Phúc đại diện k4 trao quà cho trường trung học.
Các anh Giao k2 và K.Quốc k5 vinh dự đại diện trao quà riêng của Phó Thủ tướng Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân cho Xã. Ngoài ra các bạn nữ còn tặng quà riêng 6 bộ quần áo dài cho các chị phụ nữ Xã theo nguyện vọng đã phát biểu trước.
Văn Tuấn đại diện k4 trao quà cho thầy Đại Thành gồm những thứ rất thiết thực: chăn len, quạt máy, phích nước và bộ ấm chén. Đây là những phần quà ngoài giá trị vật chất còn là tấm lòng đặc biệt của Tuấn với Thầy. Các bạn V.Tuấn, VinhNQ, HP, VTM và cô Thuý còn góp được một phần quỹ không nhỏ trao trực tiếp để Thầy chi dùng. (Ai là ai? Từ trái qua phải, hàng dưới cùng: Giao k2, 2 CB địa phương, Tường Vân (que) k6, Bình mèo k7, địa phương, thầy Đ.Thành, VTM, HP, Thuý con thầy D.H.Tuấn và hai cháu đ.phương. Hàng sau: địa phương, EGk9, ĐC, đ.phương, GM, Q.Dũng, Chủ tịch Điều, phó CT Nhì, H.trưởng M.giáo, phó CT Khương (nhà Đồng Cháy), Văn Tuấn, KQ. Hàng sau cùng: Phó B.thư Hà, qua cột đến Việt Hằng k7, HH, đ.phương, bí thư Quang, H.Triệu Hùng k1 và 3 CB đ.phương. Trong ảnh thiếu 4 người trong đoàn, 3chụp ảnh Vinh, T.Ngữ, HT và đ/c lái xe).


Đồ chơi mẫu giáo, khác với SGK, được nghiệm thu trước khi bàn giao. Tường Vân được chỉ định bàn giao phần quà này. Các bạn nữ là thích hợp nhất để được thay mặt anh em trao các phần quà tập thể đến các cháu nhỏ.





ĐC nghiệm thu đu quay tự đạp cho chạy cùng chị Nhì phó CT phụ trách văn xã và đại diện Hội Phụ nữ.
Còn bập bênh dành cho 3 cháu mỗi bên được nghiệm thu như thế này thì các cô yên tâm cho mỗi bên ... thoải mái, miễn là thu xếp được chỗ ngồi.
Chụp ảnh chung với các cô ở trường mẫu giáo.



Đáp lại là chút quà nông sản của địa phương, HH đại diện anh em trong đoàn nghiệm thu ... mít. Mỗi người một quả có thừa.
Cuộc gặp gỡ trao quà kết thúc vào hai giờ chiều, khi đoàn theo hướng dẫn của địa phương, ra về theo đường qua Văn Yên đi Đại Từ. Đường này dễ đi hơn lối qua Gốc Đa.
Đường về trong xe đầy hơi mít, nhưng chắc trong lòng mỗi người đều vui vì có dịp thay mặt các bạn làm được một việc tốt có ý nghĩa ngay tại nơi mình đã bắt đầu cuộc sống xa gia đình đầy kỉ niệm.