"....Tuy nhiên, về phương diện truyền thông chính thống, phía Việt Nam đã để phía Trung Quốc "cướp loa" suốt một tuần lễ.
Hay mới đây nhất là sự "úp úp, mở mở", "đánh lận con đen" về quan điểm của đặc phái viên của lãnh đạo Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, liên quan đến bức công hàm năm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Tất cả đều nhằm một mục đích chia rẽ Việt Nam với cộng đồng ASEAN, chia rẽ giới lãnh đạo với người dân Việt Nam, và chia rẽ người Việt Nam trong nước bất kể địa vị xã hội với người Việt ở nước ngoài.
Cần phải lưu ý rằng những kẻ hiếu chiến và tham lam trong giới lãnh đạo Trung Quốc vốn có rất nhiều kinh nghiệm trong việc gây chia rẽ, kể cả trong nội bộ. Người dân Trung Quốc đã chẳng phải trả giá lớn trong cuộc Đại Cách mạng Văn hoá, hay trong sự kiện Thiên An Môn rồi đó sao..."
Kế ly gián của hậu duệ Tào A Man
Trong bài này, người viết muốn lưu ý tới ngón nghề "bổn cũ soạn lại" mà các hậu duệ của Tào A Man đã sử dụng để ly gián đối thủ của mình. Chỉ trong vòng một năm trở lại đây thôi cũng khối ví dụ khiến người ta giật mình.
Còn nhớ cách đây gần một năm, nguyên trưởng phân xã của Tân Hoa Xã tại Việt Nam
Lăng Đức Quyền cũng đã có một bài viết nhằm chia rẽ không chỉ quá trình bình thường hoá quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, mà còn chia rẽ cả cộng đồng người Việt ở trong nước Việt Nam với cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Tuy nhiên, quan điểm tuy thiển cận và "võ đoán" của người phóng viên có mặt ở Việt Nam từ trước ngày 30.4.1975, chỉ làm hại đến thanh danh của riêng ông ta, trong con mắt của những người bạn, đồng nghiệp Việt Nam, quen biết ông ta suốt gần 40 năm qua.
Nhưng với những kẻ như tác giả của bài phỏng vấn ông Nguyễn Thế Sự trên báo Hoàn Cầu là một sự xuyên tạc trắng trợn, kiểu "ngậm máu phun người", mà ngay cả cơ quan chức năng Việt Nam cũng nên cạch mặt. Họ coi thường quá đáng lòng yêu nước đã giúp cho dân tộc này thoát khỏi một ngàn năm Bắc thuộc, và một ngàn năm tiếp theo cố gắng giữ vững nền độc lập mà vừa năm ngoái thôi dân tộc này vừa mới kỷ niệm.
|
Ông Nguyễn Thế Sự và phóng viên Tề Lỗ văn báo |
Và những kiểu cắt xén, thêm bớt như vậy trên truyền thông Trung Quốc đếm không xuể, chỉ ở mức độ tinh vi hơn thôi. Người viết chỉ điểm ra đây những ví dụ mà không phải chỉ những người Việt Nam tinh tường mới nhận ra, mà cả ông giáo Thayer từ Úc Châu cũng dễ dàng nhìn thấy.
Giáo sư Thayer đã từng nhận xét trên Tuần Việt Nam: "Việt Nam có tổ chức những cuộc họp nội bộ về Biển Đông, nhưng rất ít thông tin được công bố cho đông đảo người dân được biết. Đây là những vấn đề rất phức tạp, và nếu chính phủ không giải thích rõ những chính sách của mình cho công chúng, có nguy cơ các loại tin đồn, hay thông tin thất thiệt, sẽ tràn vào Việt Nam. "
Chẳng hạn, tờ China Daily vào ngày 4.6.12011 vừa rồi về cuộc gặp giữa bộ trưởng quốc phòng hai nước Trung Quốc và Việt Nam bên lề Đối thoại Sangri-La 2011 Tờ này viết: "Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh nói hôm Thứ Sáu rằng tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Hoa Nam (Biển Đông) cần phải được giải quyết mà không có sự tham gia của một bên thứ ba nào".
Tờ báo này cũng đã từng đưa tin rằng nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đồng ý với cách tiếp cận song phương của Trung Quốc trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, khi tường thuật cuộc gặp song phương giữa ông và Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo bên lề Cấp cao ASEAN 17.
Hay Tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng đã từng phải giải thích trên báo Quân Đội Nhân Dân rằng quan điểm của ông cũng bị hiểu lầm khi báo chí Trung Quốc đưa tin rằng ông vui mừng trước việc Trung Quốc tăng cường sức mạnh quân sự, trong khi thuật ngữ ông dùng là "khả năng quốc phòng".
Riêng về câu chuyện Shangri-La, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Nguyễn Phương Nga có nêu lại quan điểm của phía Chính phủ Việt Nam về các phương thức giải quyết tranh chấp cho từng trường hợp, trong cuộc họp báo thường kỳ diễn ra một tuần sau đó. Đối với những vấn đề chỉ liên quan đến hai nước thì giải quyết song phương giữa các nước liên quan trực tiếp: Bắc Bộ, vấn đề quần đảo Hoàng Sa). Đối với những vấn đề liên quan đến các nước và các bên khác, như vấn đề quần đảo Trường Sa, thì giải quyết giữa các bên liên quan đó. Đối với những vấn đề không chỉ liên quan đến các nước ven biển Đông, mà còn liên quan đến các nước ngoài khu vực, như vấn đề an ninh, an toàn hàng hải trên Biển Đông v.v... thì phải được giải quyết với sự tham gia của các bên liên quan.
Tuy nhiên, về phương diện truyền thông chính thống, phía Việt Nam đã để phía Trung Quốc "cướp loa" suốt một tuần lễ.
Hay mới đây nhất là sự "úp úp, mở mở", "đánh lận con đen" về quan điểm của đặc phái viên của lãnh đạo Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, liên quan đến bức công hàm năm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Tất cả đều nhằm một mục đích chia rẽ Việt Nam với cộng đồng ASEAN, chia rẽ giới lãnh đạo với người dân Việt Nam, và chia rẽ người Việt Nam trong nước bất kể địa vị xã hội với người Việt ở nước ngoài.
Cần phải lưu ý rằng những kẻ hiếu chiến và tham lam trong giới lãnh đạo Trung Quốc vốn có rất nhiều kinh nghiệm trong việc gây chia rẽ, kể cả trong nội bộ. Người dân Trung Quốc đã chẳng phải trả giá lớn trong cuộc Đại Cách mạng Văn hoá, hay trong sự kiện Thiên An Môn rồi đó sao.
Chắc không chỉ những người như ông Nguyễn Thế Sự, hay trước đó là ông Nguyễn Huy Quý, mới cảm thấy cần cảnh giác. (Cũng cần có một lời khen xứng đáng cho sự bài bản của
TS Vũ Cao Phan, người chắc chắn sẽ tiếp nối nhà ngoại giao Dương Danh Dy xuất hiện dài dài trên truyền thông Việt Nam trong những vụ việc có liên quan tới Trung Quốc.)
Điều người viết cảm thấy hơi lạ là tại sao Việt Nam có những "vũ khí" rất sắc bén trong việc đấu tranh chống các "thế lực thù địch" mà vẫn giấu kỹ thế trong trận chiến này? Trong khi những những thứ vũ khí thực sự cần giấu thì lại thấy "show" như người đẹp "show hàng" trên báo.
Cần nhớ rằng trong cuộc tranh chấp này, cuộc chiến quyền lực mềm mới là ưu tiên hàng đầu, để người Việt Nam và thế giới, kể cả dư luận Trung Quốc và ASEAN, hiểu người Việt Nam hơn. Chứ còn đua tranh quyền lực cứng chỉ là hạ sách, khi một dân tộc đã trải qua nhiều mất mát vì chiến tranh như dân tộc Việt Nam không còn đủ kiên nhẫn để nhân nhượng nữa.
Những cây bút sắc sảo này đi đâu rồi nhỉ? Trong khi những "thế lực thù địch" thật sự vẫn đang khua môi múa bút trong việc ly gián nội bộ chúng ta, hòng đục nước béo cò. Độc giả, trong đó có người viết thấy nhớ họ quá.
Khi nông dân có quyền... nhờ Trung Quốc
Một sự kiện đáng chú ý trong tuần qua là việc giới truyền thông và giới chuyên gia đồng loạt lên tiếng về xu hướng thu mua hàng nông sản ngày một nhiều của thương lại Trung Quốc.
|
Nông dân ồ ạt thu gom nông sản bán sang Trung Quốc |
Ngay cả giá một số thực phẩm như thịt gia súc, gia cầm, trứng... tăng cao đột biến, cũng được không ít ý kiến cho rằng có nguyên nhân do thương nhân Trung Quốc sang Việt Nam thu mua với số lượng lớn.
TS Trần Minh Quân trong
bài viết mới đây trên Diễn đàn Kinh tế Việt Nam, sau khi nói rằng, trong khi các loại hàng hóa khác đang được điều chỉnh lên xuống theo giá thị trường, thì giá các loại nông sản như rau, củ, quả, lúa, gạo, ... thường do thương lái và các nhà phân phối định giá, đã chua chát nhận xét:
"Trong thời gian qua, với sự xuất hiện ồ ạt của thương nhân Trung Quốc trên đất nước Việt Nam, người nông dân lần đầu tiên mới có cơ hội được "làm giá" các sản phẩm do mình làm ra mà ít chịu sự o ép về chất lượng như trước đây khi bán cho các thương lái Việt Nam."Giải thích nguyên nhân của xu hướng thương lái Trung Quốc tập trung thu gom hàng nông sản Việt Nam một cách bất thường, Thứ trưởng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Diệp Kỉnh Tần nói: "Một là có thể đang vào thời điểm phía Trung Quốc khó khăn về nguồn cung sản phẩm, bởi hiện họ thiếu rất nhiều thứ, kể cả gạo, thịt và nhiều sản phẩm khác. Mỗi khi thiếu như vậy sẽ có tác động rất lớn vì thị trường của họ tới hơn 1,3 tỷ dân, nên cần khối lượng lớn."
Theo Cục Số liệu Quốc gia Trung Quốc, trong tháng 5.2011, giá tiêu dùng đã tăng 5,5%, cao nhất trong vòng 34 tháng qua. Trong đó, giá lương thực tăng 11,7%.
"Các nhà nghiên cứu nông nghiệp, nhất là lịch sử kinh tế nông nghiệp trên thế giới thường nói rằng "hạt gạo không phải hạt làm giàu, nhưng là hạt chống chiến tranh, chống bạo loạn".
Củng cố cho nhận định nói trên là một phát hiện đáng chú ý của giới chuyên gia nước ngoài, khi họ chỉ ra rằng sự kiện Thiên An Môn cách đây 22 năm đã diễn ra trong bối cảnh lạm phát ở Trung Quốc lên tới mức 5,5% sau nhiều năm.
Ông Tần còn đi xa hơn nữa, khi lưu ý tới một khả năng khác, mà Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ. "Đó là nếu Trung Quốc cố tình làm như thế, họ sẽ gây khó khăn lớn đối với nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo các sản phẩm thực phẩm sạch cung cấp cho người dân trong nước và cả xuất khẩu", ông nhắc nhở.
Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, áp lực nói trên đều tác động lên lạm phát của Việt Nam vô cùng lớn. Bởi nó được "điều phối" vào các thời điểm rất nhạy cảm của nền kinh tế Việt Nam.
Thử hình dung khi người Việt Nam bắt đầu có chút hân hoan, dù hơi sớm, về việc tốc độ tăng lạm phát tháng giảm bớt trong tháng 6, thì tín hiệu của nửa đầu tháng 7 vừa qua là gì? Và ai dám chắc nó sẽ không tiếp tục trong các tháng sắp tới, bất chấp nỗ lực kìm hãm lạm phát của Chính phủ ở mức 17% trong quý 3, và quý 4.
Đó là chưa nói nó sẽ vô hiệu hoá ngay quyết định nâng lương tối thiểu cho người lao động trong khu vực hành chính và doanh nghiệp, ngay khi nó chưa kịp có hiệu lực.
Chưa nói tới khuyến cáo của các chuyên gia về "bài học Trung Quốc", khi nông sản, hay nguyên liệu của Việt Nam đã phụ thuộc vào duy nhất một thị trường của họ, thì họ trở mặt, gây khó dễ để ép giá, ngay việc họ chơi đàng hoàng cũng gây bao khốn đốn cho Việt Nam vào thời điểm này. Từ việc phá vỡ cơ cấu vùng sản xuất, nguồn cung nguyên liệu, đến tình trạng "đói dài" của các cơ sở chế biến của Việt Nam, dẫn đến thất nghiệp hàng loạt.
Nguy hiểm hơn nữa, thặng dư thương mại của Trung Quốc với Việt Nam không nhất thiết bằng đồng tiền quốc tế, như USD, mà có thể bằng chính tiền VND. Không ai có thể loại bỏ thực tế là các thương nhân Trung Quốc vùng biên mậu giáp Việt Nam có thể tích trữ một lượng lớn dự trữ tiền VND, có được từ thặng dư thương mại phi chính thức.
Theo một nguồn tin từ tháng 3.2011, số lượng tiền đồng đó có thể là 200 ngàn tỷ VND, tương đương với 10 tỷ USD. Và thương nhân Trung Quốc hoàn toàn có thể sẵn sàng sử dụng số tiền đó, nếu quả thực là nó đang nằm trong dự trữ cho thương mại để trả lại vào nền kinh tế Việt Nam. Nếu đúng vậy, đây là một cú sốc tăng cung tiền lớn.
Với các giải pháp tình thế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cách đây hai hôm đã phải có cuộc họp khẩn cấp nhằm đánh giá tình hình. Chính phủ và Quốc hội sắp tới cũng khó có thể không bàn tới nguy cơ cấp bách này. Các chuyên gia cũng sẽ còn phân tích dài dài. Trước mắt, khó có thể nói về một nhóm giải pháp khả thi nào đó.
Nhưng về lâu dài, đó là một câu chuyện rất đáng quan tâm, nếu không nói là thuộc nhóm ưu tiên hàng đầu. Và trước hết phải đánh giá lại vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế nói chung.
Một phần tư thế kỷ qua, có lẽ ngoài chuyện người nông dân được cởi trói, nông nghiệp chưa hề nhận được sự đầu tư đáng kể nào. Đó là chưa nói tới việc bị chèn ép, tước đoạt nguồn lực bởi các khu vực kinh tế khác như công nghiệp, dịch vụ, hay bất động sản. Mặc dù, hơn 20 năm qua nó đóng một vai trò rất lớn trong nền kinh tế.
Ngoài việc đảm bảo an ninh lương thực, và đóng góp cho xuất khẩu, nền nông nghiệp giá rẻ đã giúp duy trì lợi thế cạnh tranh hàng đầu về nhân công giá rẻ của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Nói như Giáo sư Peter Timmer, chuyên gia hàng đầu về lịch sử nông nghiệp: "Thật vô lý khi một đất nước có truyền thống và lợi thế về nông nghiệp lại cứ mải chạy theo xu hướng công nghiệp ở trình độ thấp, và nông dân ở một nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới lại đa phần sống ở mức nghèo khổ."
Và điều quan trọng hơn là phải cấu trúc lại mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc, khi thặng dư nông sản giá trị thấp với anh bạn láng giềng này, trong khi đó lại thâm hụt hàng công nghiệp tiêu dùng, và tiến tới cả hàng hóa tư bản, ở mức độ ngày càng lớn - điều mà giờ đây Việt Nam đang phải chịu đựng.
Có một điều trớ trêu là với giá mà thương lái Việt Nam trả trước đây, người nông dân Việt Nam chắc chỉ dám xài hàng Tàu chất lượng thấp, nhưng giá bèo. Chắc chỉ với cách bán nông sản cho đám thương lái Trung Quốc như bây giờ, những người nông dân Việt Nam mới có đủ tiền để hưởng ứng lời kêu gọi "dùng hàng Việt Nam là yêu nước".
Một cái kết thúc gợi nhớ lại truyện ngắn nổi tiếng "Món quà của các nhà hiền triết". Chỉ có khác là "tự nhiên muốn ... ứa nước mắt".
Tranh cãi cá nhân trong vụ giải thưởng nhà nước
Chiều 6/7, nhà biên kịch Phan Thanh Tú đã gửi kiến nghị lên Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch về kết quả xét tặng Giải thưởng Nhà nước đối với cụm công trình của đạo diễn Nguyễn Thước gồm Sự nhọc nhằn của cát, Những công dân @, Chất xám, với sự đồng thuận của đồng nghiệp Phan Huyền Thư.
Nếu hai nhà biên kịch này chỉ phê phán là đạo diễn Nguyễn Thước chưa xứng đáng đưa 3 tác phẩm này để được xét phong tặng Giải thưởng Nhà nước, như lời nhận xét với báo chí sau đó, có lẽ câu chuyện không ồn ào vào đi xa như vậy. Bởi, xét cho cùng, tuy có một bộ phim là phim Sự nhọc nhằn của cát đoạt giải Bông sen Bạc, nhưng bản thân nhà đạo diễn lại chưa giành được giải cá nhân nào.
Thế nhưng, hai nữ biên kịch đã khẳng định, Nguyễn Thước xin xét phong tặng Giải thưởng Nhà nước cho các bộ phim trên với tư cách tác giả là không đúng, vì tác giả kịch bản và lời bình mới thật sự là tác giả sáng tác của lĩnh vực văn học nghệ thuật. Và họ mới là người đoạt giải cá nhân, Phan Thanh Tú đoạt giải Bông Sen Vàng cho Biên kịch xuất sắc với phim Sự nhọc nhằn của cát, còn Phan Huyền Thư đã nhận giải Bông Sen Vàng cho Biên kịch xuất sắc với phim Chất xám.
Cũng chính do cái nhầm về tiêu chí của hai nhà biên kịch này, khi từ năm 2005, đạo diễn cũng được tham gia, đã khiến đạo diễn Nguyễn Thước bức xúc. Sau khi dẫn chứng rằng đạo diễn Bùi Đình Hạc nhận giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2005, và đạo diễn Nguyễn Thanh Vân nhận Giải thưởng Nhà nước năm 2007, ông đạo diễn bị "khiếu kiện" đã "phản pháo":
"Việc các chị ấy nói tôi không phải người sáng tạo với phim là sai, vì người ta xem phim, có ai đọc kịch bản đâu. Đặc biệt là phim tài liệu, làm phim là quá trình thay đổi nhiều lần, thậm chí là nhận thức lại kịch bản. Đáng lẽ, khi nhận được giải thưởng dành cho biên kịch..., họ cũng nên cảm ơn tôi mới phải".
Đạo diễn Nguyễn Thước còn đi xa hơn, khi bóng gió rằng kịch bản nhiều khi cũng chỉ là những ý tưởng phác thảo thôi, còn đạo diễn phải phát triển nhiều lắm.
Người viết tìm đến nhà biên kịch Nguyễn Quang Lập, người được một đồng nghiệp khác, đồng thời cũng là một đạo diễn, là bà Nguyễn Thị Việt Nga nhắc đến như một "kẻ thiệt thòi" trong câu chuyện Giải thưởng Nhà nước của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, khi vị nữ tiến sĩ này gia nhập phe "biên kịch" chống lại phe "đạo diễn".
Ông Nguyễn Quang Lập trả lời qua điện thoại từ TP HCM:
"Theo tôi, không nên quan niệm ai là người có vai trò số một cả. Trong quan hệ giữa biên kịch và đạo diễn trong phim nên có quan hệ bình đẳng, như mối quan hệ của biên kịch và đạo diễn trong lĩnh vực sân khấu. Trên sân khấu, không ai nói vở kịch của ông đạo diễn cả, trong khi trong phim ảnh người ta luôn nói phim là của ông đạo diễn.
Còn nói cho nhanh, ông biên kịch là ông thiết kế, còn ông đạo diễn là tổng công trình sư. Ông tổng công trình sư vất vả lắm đấy, nhưng sáng tạo của ông là trên cơ sở bản thiết kế có sẵn. Ông tổng công trình sư cũng không thể nói "ngôi nhà" là của ông, mà chủ nhà, tức là nhà sản xuất, mới có quyền nói là nhà của ông ta.
|
Đạo diễn Nguyễn Thước và nhà biên kịch Phan Huyền Thư |
Phim là của nhà sản xuất, còn ông đạo diễn và biên kịch chỉ là những ông làm thuê, và phải tuân thủ theo yêu cầu của nhà sản xuất.
Tuy nhiên, tôi vẫn muốn nhấn mạnh tới sự vất vả, bao quát, và dấu ấn rõ nét nhất của đạo diễn, để ông ta có thể để tên mình đứng cạnh một bộ phim. Mặc dù, về bản chất, đó là tác phẩm của cả một tập thể."
Theo thiển nghĩ của người viết, chung qui cũng là do cái bộ (Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch) đã ra Thông tư qui định chi tiết về tiêu chuẩn, thủ tục, hồ sơ xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật (ra ngày 27.5.2010) chẳng rõ ràng, khiến cho các nhà đạo diễn, biên kịch đáng kính nói trên lại mang nhau ra làm khổ.
Trong thông tư này, điều 2 (giải thích từ ngữ) có viết:
5. Tác giả là người bằng lao động của mình trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, công trình.
6. Đồng tác giả là nhiều người bằng lao động của mình cùng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, công trình.
Thông tư đã qui định rõ như vậy về "tác giả" và "đồng tác giả", thế mà cái bộ ra thông tư này lại vẫn cho phép đạo diễn Nguyễn Thước một mình mang những tác phẩm mà mình chỉ là một trong các đồng tác giả đi nộp để được xét trao giải thưởng. Cả ba cùng mang đi có phải vui hơn, đoàn kết hơn không? Mặc dù, về giá trị vật chất, cái size chắc không hoành tráng bằng.
Để không có cái nuối tiếc rằng "một số người trong giới còn ngạc nhiên vì từ hàng chục năm trước, đạo diễn Nguyễn Thước - biên kịch Phan Huyền Thư đã được xem là một cặp bài trùng, và kịch bản của Phan Huyền Thư dường như là cảm hứng bất tận để vị đạo diễn này làm nên những bộ phim gây tiếng vang.
Thế nhưng, trong trường hợp này, lại có cái rắc rối khác. Nhà biên kịch Phan Thanh Tú đã nhận xét rằng "với những giải thưởng khiêm tốn như thế thật khó có thể trao giải thưởng Nhà nước cho cụm công trình này, chưa kể lại trao cho đạo diễn Nguyễn Thước".
Thảo nào, đạo diễn Nguyễn Thước đã lẳng lặng làm hồ sơ cho riêng mình, mà không muốn gây "liên luỵ" cho hai đồng nghiệp. Kể cũng tội cái thân ông, làm phúc mang tội!
Qua chuyện này, cũng hiểu thêm tại sao "Bọ Lập" (tên bạn bè gọi Nguyễn Quang Lập một cách thân mật) đã quyết chẳng "dây dưa" vào câu chuyện giải thưởng với đạo diễn Nguyễn Thanh Vân. Chắc "Bọ" nghĩ trong cuộc đời này có nhiều cái đáng làm hơn là cái việc tranh cãi vô bổ, tốn hơi sức, giấy mực đó.
Như theo dõi chặt chẽ những động thái gây hấn của Trung Quốc, và viết những bình luận, cảnh báo trên blog của mình, chẳng hạn.
1 nhận xét:
Cũng biển đảo, cũng "hot" nhưng thư giãn.
Mời các bác đọc truyện ngắn mới "Ốc gió" của anh Trần Chiến.
TTh
Đăng nhận xét