Thứ Bảy, tháng 4 04, 2015

"Thông báo kết quả nghiên cứu" của Viện Lịch sử QS và một số tư liệu

"Không ai có thể thay đổi được lịch sử, những gì Viện Lịch sử làm sau sẽ được hạ hồi phân giải".Đây là ý kiến của một chứng nhân lịch sử! Kết luận vấn đề mấu chốt nhất thì lại là một kết luận dung hòa Xem thêm
Nhân chứng đặc biệt - Kỳ 1: Trung tá Tùng hay đại úy Thệ? Những gì diễn ra tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh Sài Gòn ngày 30-4-1975 là một phần trong sự kiện lịch sử tại Sài Gòn cách nay 32 năm. Nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều câu hỏi xung quanh sự kiện chấp bút soạn thảo văn kiện đầu hàng cho tổng thống Dương Văn Minh, nó đã trở thành cuộc “tranh chấp sự thật” giữa nhiều cơ quan, báo đài và giữa hai người lính: đại tá về hưu Bùi Văn Tùng và trung tướng tư lệnh Quân khu I Phạm Xuân Thệ. Ai là người đã chấp bút soạn thảo văn kiện đầu hàng cho tướng Dương Văn Minh ngày 30-4-1975 tại Đài phát thanh Sài Gòn? Hơn 20 năm qua, cả ông Bùi Văn Tùng và ông Phạm Xuân Thệ đều trả lời: Tôi!
(Toàn bài)
  Bản thảo ở đâu ? 32 năm trước, vào tháng 4-1975, ông Bùi Văn Tùng mang cấp bậc trung tá, là chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 thuộc Quân đoàn 2. Còn ông Phạm Xuân Thệ lúc đó còn rất trẻ so với ông Tùng, là đại úy trung đoàn phó trung đoàn 66 bộ binh, cũng thuộc Quân đoàn 2. Cả hai viên sĩ quan này đều can dự trực tiếp vào diễn biến lịch sử trong ngày lịch sử 30-4-1975 tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh Sài Gòn. Lúc ấy, không ai trong số họ, cũng như những người lính khác, nghĩ về tiếng tăm, công trạng từ những hành động của mình. Họ chỉ làm nhiệm vụ người lính. Nhưng 10 năm sau, sự rắc rối bắt đầu diễn ra. Tại TP.HCM, trong nhiều dịp kỷ niệm 30-4, ông Bùi Văn Tùng thường xuất hiện như một nhân chứng lịch sử. Ông được nhiều trường học và cơ sở Đoàn mời đến nói chuyện về khoảnh khắc lịch sử ấy. Có rất nhiều chương trình truyền hình, cả trăm bài báo nói về vị đại tá về hưu người Đà Nẵng này. Ông được biết đến như một sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại dinh Độc Lập trưa 30-4-1975. Ông khẳng định vô số lần rằng chính ông đã thảo bản tuyên bố đầu hàng cho tổng thống Dương Văn Minh, và chính ông cũng đã đại diện cho quân giải phóng miền Nam chấp nhận sự đầu hàng đó tại đài phát thanh. Nhưng từ năm 1985, ông Phạm Xuân Thệ bắt đầu xuất hiện trên báo chí và các cuộc hội thảo, cũng với tư cách một nhân chứng lịch sử và cũng khẳng định chắc nịch rằng chính ông đã trực tiếp thảo văn bản nói trên. Chúng ta hãy đọc một đoạn hồi ức của trung tướng Phạm Xuân Thệ trên VietnamNet cách đây vài hôm: “...Tôi đến cửa, toàn bộ nội các của họ đứng dậy chào. Vẻ mặt ai cũng bồn chồn lo lắng, có người lúng túng sợ sệt. Tổng thống Dương Văn Minh chậm rãi: “Biết quân giải phóng đã vào thành phố, nội các chúng tôi đang chờ các ông để bàn giao”. Tôi nói dứt khoát: “Các ông phải đầu hàng vô điều kiện. Yêu cầu tất cả xếp hàng đôi ra khỏi ngôi nhà này”. Tổng thống Dương Văn Minh khẩn khoản: “Chúng tôi xin được ở đây. Ra ngoài bây giờ không an toàn”. Tôi ra lệnh: “Các ông phải ra ngay đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện”. Sau đó tôi đưa ông ra đài phát thanh. Tôi thảo bản tuyên bố: “Tôi - Dương Văn Minh - tổng thống chính quyền Sài Gòn, tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trước sức mạnh của quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi kêu gọi chính quyền từ trung ương đến địa phương giải tán toàn bộ, trao lại cho quân giải phóng miền Nam Việt Nam”. Ông ta phản đối chữ “tổng thống”, đòi đổi thành “đại tướng”, tôi không chịu: “Đã nhận chức tổng thống mới một ngày hay một giờ ông cũng là tổng thống”. Đó cũng là nội dung tướng Phạm Xuân Thệ kể lại cho các nhà báo nhiều năm qua. Rất tiếc là lời tuyên bố đầu hàng mà ông Thệ cho rằng ông viết lại không khớp với nội dung ông Dương Văn Minh tuyên bố trên đài. Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là những chuyện ông Thệ khẳng định do ông làm cũng là những chuyện ông Tùng khẳng định do ông Tùng làm. Cả hai ông đều cho rằng chính mình đã chấp bút bản tuyên bố đầu hàng. Vậy bản thảo đâu? Đại tá Bùi Văn Tùng trả lời TT: “Do không ý thức được giá trị của nó, nên tôi đã vò bản thảo và đút vào túi quần. Sau đó, tôi đã trao lại cho cán bộ chính trị quân đoàn theo yêu cầu của họ”. Trung tướng Phạm Xuân Thệ trả lời TT: “Bản thảo đó tôi đút vào túi áo. Khi xong việc ở đài phát thanh, quay về đơn vị để tắm rửa, giặt giũ, thay quân phục, tôi quên lấy bản thảo này ra nên đã mất luôn”. Một bản thảo duy nhất lại có thể vừa nằm trong túi quần chính ủy lữ đoàn, lại vừa nằm trong túi áo đại úy trung đoàn phó? Thật vô lý. Nhưng điều vô lý đó cứ kéo dài như thế, rồi trở thành cuộc tranh cãi gần đây. Trước dư luận như vậy, cơ quan chức trách thuộc Bộ Quốc phòng đã làm gì? Ngày 17-1-2006, sau ba tháng nghiên cứu, lãnh đạo Viện Lịch sử quân sự đã thông báo “kết quả nghiên cứu, khảo sát những vấn đề chưa thống nhất xung quanh sự kiện đánh vào dinh Độc Lập”. Trong cuộc họp báo tại Hà Nội, thiếu tướng Trịnh Vương Hồng không coi đây là “kết luận”, mà chỉ là “thông báo kết quả nghiên cứu”. “Thông báo” đó tóm tắt như sau: - “Việc bắt tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các ở phòng họp dinh Độc Lập và áp giải Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu sang đài phát thanh” là của một số cán bộ chiến sĩ trung đoàn 66 do đại úy Phạm Xuân Thệ chỉ huy. - Đại úy Phạm Xuân Thệ cùng cán bộ trung đoàn 66 đã tổ chức soạn thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh. Văn bản đang được soạn thảo thì trung tá chính ủy Bùi Văn Tùng mới xuất hiện, và sau đó cùng tiếp tục thảo và hoàn chỉnh lời tuyên bố đó. Ngay sau khi báo chí đưa tin nội dung cuộc họp báo nói trên, từ TP.HCM, đại tá Bùi Văn Tùng đã lập tức phản ứng. Ông cho rằng “kết luận” đó không khách quan, nghiêng về phía trung tướng tư lệnh Quân khu I Phạm Xuân Thệ và yêu cầu phải tiếp tục làm sáng tỏ sự thật lịch sử. Không dừng lại đó, những người lính trên chiếc xe tăng nổi tiếng 390 cũng đã lên tiếng phản đối “thông báo” của Viện Lịch sử quân sự với những lời lẽ gay gắt. Và cuộc “bút chiến” đã nổ ra khi tạp chí Xưa & Nay (thuộc Hội Khoa học lịch sử VN) thực hiện một chuyên đề dài 12 trang về diễn biến ngày 30-4-1975 tại Sài Gòn. Trong đó, ông Dương Trung Quốc và các tác giả khác đã đưa ra nhiều tư liệu và luận cứ khác, nhằm gián tiếp chứng minh rằng “thông báo” của Viện Lịch sử quân sự là không đầy đủ, không khách quan và chính xác. Không lâu sau đó, tạp chí Lịch Sử Quân Sự (cơ quan của Viện Lịch sử quân sự) “đáp trả” cũng bằng một chuyên đề nhiều trang về sự kiện này. Mọi chuyện không chỉ dừng lại ở hai tạp chí chuyên ngành. Tại Liên hoan truyền hình toàn quốc 2007, Đài truyền hình TP.HCM (HTV) đã tung ra bộ phim tài liệu lịch sử đáng chú ý, với tựa đề Dinh Độc Lập trưa ngày 30-4 của đạo diễn Lâm Thành Quí. Với những tư liệu và nhân chứng mới, bộ phim này đã gián tiếp phủ nhận “thông báo kết quả nghiên cứu” của Viện Lịch sử quân sự. Bộ phim được các thành viên giám khảo đánh giá rất cao Thế còn ý kiến của các nhân chứng có mặt tại Đài phát thanh Sài Gòn vào trưa 30-4 thì sao? Điều đáng nói là các nhân chứng này cũng chia làm hai, và không ai chịu ai! Như các đồng đội cũ ở trung đoàn 66 bộ binh của trung tướng Phạm Xuân Thệ là thiếu tướng Hoàng Trọng Tình, đại tá Phùng Bá Đam... vẫn cho rằng chính ông Thệ đã tổ chức soạn thảo và chấp bút bản tuyên bố đầu hàng cho tổng thống Dương Văn Minh. Còn các nhân chứng khác cũng có mặt trong khoảnh khắc lịch sử đó như: nhà báo Kỳ Nhân (lúc đó làm việc cho Hãng AP, người chụp bức ảnh duy nhất tại đài phát thanh), sinh viên Nguyễn Hữu Thái, sinh viên Huỳnh Ngọc Chênh… lại khẳng định người làm việc đó là chính ủy Bùi Văn Tùng. Nhưng tất cả nhân chứng nói trên chỉ có thể dựng lại hiện trường theo trí nhớ của mình. BÙI THANH - LAM ĐIỀN http://vietbao.vn/Phong-su/Nhan-chung-dac-biet-Ky-1-Trung-ta-Tung-hay-dai-uy-The/40198768/264/ Nhân chứng đặc biệt (kỳ 2) Nguoi chau Au duy nhat trong dinh Doc Lap Sáng 30-4-1975, mặc dù “sợ đến run cả hai đầu gối”, Borries Gallasch vẫn tìm cách “lọt” vào bên trong dinh Độc Lập, và sau đó trở thành phóng viên nước ngoài duy nhất chứng kiến thời khắc lịch sử ở Đài phát thanh Sài Gòn. Dưới đây là tường thuật của ông, với tư cách một nhà báo. Nó được viết cách đây 32 năm và được in trong cuốn Ho - Tschi - Minh Stadt. Vì cuốn sách được viết từ năm 1975, nên không thể tìm thấy trong các hiệu sách ở Đức. Nhờ nỗ lực của nhà quay phim Đặng Việt Tùng, bản sách duy nhất của Borries Gallasch đã được gửi về VN vào giữa năm 2006. Đúng 7 giờ sáng, những chiếc máy bay trực thăng cuối cùng của không lực Hoa Kỳ rời khỏi Sài Gòn. Đến 12g trưa, những lá cờ của Mặt trận Giải phóng tung bay trên nóc dinh Độc Lập. Dietrich Mummendey cùng tôi đã trụ lại qua đêm tại Hội Chữ thập đỏ nằm trên đường Hồng Thập Tự. Vào khoảng 8 giờ sáng, chúng tôi đi đến khách sạn Caravelle nơi tập trung hầu hết phóng viên thông tấn nước ngoài còn ở lại. Đầu tiên là người Pháp, người Nhật, một vài người Anh, Ý và cả chúng tôi. Mummendey và tôi không thể nán lại lâu hơn nên đã đi đến văn phòng của Hãng Reuters, nằm cách khách sạn khoảng 2km. Mặc dù sợ đến run cả hai đầu gối, nhưng sau đó tôi vẫn đi bộ đến dinh Độc Lập vào lúc 11g sáng hôm ấy. Tôi đứng một mình trước dinh mà giờ đây yên lặng như một viện bảo tàng và ngổn ngang những mũ sắt, quân phục, súng ống, thậm chí cả lựu đạn và một khẩu súng chống tăng, súng máy ngay tại bãi cỏ. Nguoi chau Au duy nhat trong dinh Doc Lap Không có một bóng người nào ở đó. Những tiếng nổ từ phía kho đạn của sân bay Tân Sơn Nhất vẫn còn vọng lại. Tôi bước qua cánh cổng sắt mở hé. Một thiếu tá bước sát ngay bên cạnh tôi, nhưng làm như có vẻ không nhìn thấy tôi. Tôi băng ngang qua bãi cỏ và nghĩ rằng có thể bị ai đó bắn bất cứ lúc nào. Ngay bên những bậc thang dẫn đến lối vào chính có những người lính đang cãi vã. Một chiếc Limousine đen, bên trong là ông Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống của một chính thể không còn nữa, nói với tôi: “Chúng tôi đang chờ phái đoàn của Mặt trận Giải phóng vào dinh, anh có thể đợi nếu anh muốn”. Những người lính của đội cận vệ tổng thống thậm chí đã không thèm chào khi một nhân vật quan trọng thứ hai của quốc gia được chở ra bằng cổng sau. Tôi hít một hơi thật sâu rồi bước tiếp lên những bậc tam cấp đi vào cửa chính qua tiền sảnh rồi đi lên lầu một. Tại đây tôi gặp Hà Huy Đỉnh - một luật sư Sài Gòn người nhỏ bé và cũng là học trò của thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Hà Huy Đỉnh, người mà chỉ vừa mới đi lên từ tầng hầm đã có cùng ý nghĩ như tôi: đi đến một chỗ mà nếu có chuyện gì quan trọng xảy ra thì sẽ xảy ra ở đấy. Trong khoảnh khắc ấy, khi chúng tôi còn đang đứng ở giữa sảnh thì cửa thang máy bật mở, bước ra là tổng thống Minh “lớn”, thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một vài người thân cận từ dưới hầm trú ẩn đi lên. Ông Minh “lớn” (Big Minh) nói: “Thật là tốt khi anh có mặt ở đây, anh sẽ chứng kiến sự chuyển đổi vận mệnh của đất nước tôi vào tay những người xứng đáng hơn tôi”. Trong lúc những nhân viên của tổng thống Dương Văn Minh đi đi lại lại đầy lo âu, thì ông vẫn đứng im lặng giữa sảnh và phóng tia mắt nhìn qua cửa sổ phía trước của dinh về hướng nhà thờ Đức Bà. Bỗng nhiên những tiếng nổ inh tai của súng máy vang lên. Tôi nằm rạp xuống sàn tìm kiếm sự che chắn đằng sau cột ximăng. Phút cuối cùng của sự nổi dậy, một cuộc đánh chiếm dinh?! Không có tấm kính nào bị vỡ, chúng tôi rời khỏi chỗ nấp. Minh “lớn” vẫn đứng nguyên chỗ cũ, to lớn như một bức tượng bên cạnh ông thủ tướng thấp bé. Rồi trước mắt chúng tôi xuất hiện cảnh tượng không thể tin được: ba chiếc xe tăng treo những lá cờ của Mặt trận Giải phóng tiến qua cổng sắt hướng về phía bồn hoa trước dinh. Súng bắn loạn xạ lên không trung, những phát súng của niềm vui, dàn giao hưởng của chiến thắng, giai điệu của vinh quang. Chiếc tăng đầu tiên húc đổ cánh cổng, lăn xích thẳng trên bãi cỏ nhằm hướng dinh lao tới. Hai chiếc tăng còn lại vòng sang hai bên và rồi tất cả đều dừng lại trước mặt tiền của dinh. Khoảng 20-30 phát súng khác được bắn lên. Tôi chạy ra ban công chụp ảnh. Tôi và Hà Huy Đỉnh thay phiên nhau. Thật là một cảnh ngoạn mục. Và rồi một người lính giải phóng với khẩu súng bên tay trái và một lá cờ bên tay phải xông lên cầu thang suýt xô ngã tôi. Hai chiến sĩ giải phóng khác chiếm lấy vị trí bên phải và bên trái của cầu thang. Đầu tiên không ai nhận thấy Minh “lớn” và những người khác đang chờ họ ở phía bên kia của phòng tiếp khách. Xe tăng lữ đoàn 203 đang ào ạt tiến vào sân dinh Độc Lập trưa 30-4-1975 - Ảnh: Borries Gallasch Một người lính đứng ngay trước mặt tôi. Anh ta hét vào tôi, hét đi hét lại điều gì đó mà tôi không hiểu. Hà Huy Đỉnh hét giải thích cho tôi là mở cửa ra ban công. Tôi mở cánh cửa kính ra vào. Anh ta lướt qua tôi, kéo cờ lên và vẫy đi vẫy lại. Ở phía dưới nhiều chiếc xe tăng tiếp tục tiến vào và tất cả đều bắn lên không trung. Một vài nhà báo chạy vào qua bãi cỏ. Khoảng 30 binh sĩ của chế độ Sài Gòn đứng giơ tay đầu hàng và xếp thành ba hàng trên bãi cỏ. Là một người châu Âu duy nhất, là một nhà báo duy nhất, tôi chứng kiến đại tướng Minh “lớn” - tổng thống của VN cộng hòa, đã bị bắt bởi Phạm Xuân Thệ, chỉ huy của đoàn Đông Sơn thuộc quân đội giải phóng. Tay cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu K54 của Nga, Thệ rất phấn khích la lớn yêu cầu ông Minh ra đài phát thanh. Nhưng tướng Minh không muốn đi. Ông ta đề nghị rằng bài nói của ông phải được thu âm vào máy thu ở trong dinh. Họ tranh luận việc đó. Càng lúc càng nhiều người lính giải phóng chạy vào. Rồi họ bắt đầu tìm máy thu nhưng không có kết quả. Không có một cái máy ghi âm nào trong dinh cả. Sự hoang mang chấm dứt khi người chỉ huy của quân giải phóng, chính ủy Bùi Văn Tùng xuất hiện. Ngay lúc đó, một nhóm đông người tập trung lại và được đưa vào phòng tiếp khách của tầng thứ nhất. BORRIES GALLASCH (Nam Hải - Tiến Long dịch) http://vietbao.vn/Phong-su/Nguoi-chau-Au-duy-nhat-trong-dinh-Doc-Lap/40198927/263/ Nhân chứng đặc biệt (Kỳ 3) Ong Tung da thao van kien dau hang Đại tá Bùi Văn Tùng Trong phần tường thuật dưới đây, nhà báo chuyên nghiệp Borries Gallasch đã trả lời một cách chắc chắn về vấn đề gây tranh cãi hàng chục năm qua: người đã thảo lời tuyên bố đầu hàng cho tổng thống Dương Văn Minh. Thảo văn kiện Sau một vài phút, ông Dương Văn Minh, ông Vũ Văn Mẫu và ông Bùi Văn Tùng rời khỏi phòng, theo sau là những người đã có mặt tại đây để sang đài phát thanh. Chúng tôi bước xuống cầu thang ra bãi cỏ, đến ngang chỗ vòi phun nước, tổng thống Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu leo lên một chiếc xe jeep được bảo vệ bởi hai chiến sĩ giải phóng (đại úy Phạm Xuân Thệ đi xe này - TS). Chính ủy Bùi Văn Tùng và một người lính khác lên chiếc xe thứ hai. Tôi đang đứng ngay cạnh chiếc xe jeep nói chuyện với ông chính ủy bằng tiếng Pháp, cố gắng xin ông ta để được lên xe. Ông gật đầu đồng ý. Luật sư Đỉnh với bộ râu dài cũng leo lên chiếc xe jeep này và chúng tôi lái đi. Chỉ có hai chiếc xe này của chúng tôi chạy giữa thành phố lúc ấy - một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên được làm dịu đi - qua tòa đại sứ Mỹ trống hoác, đến đài phát thanh nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ thuật viên đã lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển sách. Tổng thống Dương Văn Minh và chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu hàng trên một mảnh giấy màu xanh. Ông Mẫu trông có vẻ hài lòng. Ông tỏ ra như thể chiến thắng này là chiến thắng của ông. Người thành lập và phát ngôn cho lực lượng thứ ba, mà mới tuần trước đã giải thích cho tôi tại sao nhóm trung lập của ông ấy sẽ là một nhân tố cần thiết cho bất cứ một tương lai chính trị nào ở Nam VN, nay tuyên bố rằng: “Không còn lực lượng thứ nhất nữa nên chúng ta không còn cần đến lực lượng thứ ba, hòa giải dân tộc diễn ra sớm hơn dự định. Bây giờ dù muốn hay không chúng ta cùng làm việc cho nhân dân ta”. “Không phân biệt chính kiến?”. “Đúng, chúng ta có khác nhau về quan điểm nhưng những điểm khác nhau đó chỉ hướng chúng ta đi đến một mục đích chung”. Chính ủy Tùng đã rất khó viết. Ông ngồi bất động trong khi thảo ra được một vài từ rồi đến từ nữa, rồi lại thay thế bằng những từ khác. Sau 30 năm chiến đấu cho một mục đích, thật là khó để biết phải viết như thế nào. Trong lúc đấy mọi người dường như đang thư giãn và giảm phấn khích hơn so với một giờ trước. Đại úy Phạm Xuân Thệ, người đã bắt ông Minh trong dinh, vẫn còn lăm lăm khẩu súng trong tay. Ông ta nhắc đi nhắc lại với ông Minh về việc đầu hàng trên đài. Thời khắc lịch sử Trên đường tìm kiếm tài liệu và gặp gỡ nhân chứng, vào tháng 3-2005, phóng viên TS đã đến Bộ tư lệnh Quân đoàn II đóng ở Bắc Giang (cách Hà Nội 80km). Trong khi xem xét kỹ từng hiện vật ở bảo tàng quân đoàn (lúc đó còn rất ngổn ngang vì đang sắp xếp trưng bày lại), phóng viên TS đã sửng sốt khi nhìn thấy bản thảo lời tuyên bố đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh. Đó là hai trang giấy pơluya màu xanh, nhăn nhúm và lấm lem bụi đường. Nhìn nét chữ thì biết ngay của đại tá Bùi Văn Tùng và cán bộ bảo tàng cũng xác nhận điều đó. Điều đáng nói là ngay bên cạnh bản thảo viết tay của đại tá Tùng, chúng tôi lại thấy một bản thảo cùng nội dung, nhưng được một người nào đó viết. Trả lời thắc mắc này, cán bộ Bảo tàng Quân đoàn II nói rằng: Sợ bản thảo gốc bị mờ, giấy lại nhăn, khó đọc, nên bảo tàng cho người viết lại để dễ đọc. Một lời giải thích khó có thể chấp nhận! Do vậy cán bộ bảo tàng đã không thể trả lời được câu hỏi tiếp theo: Điều gì sẽ xảy ra khi bản thảo của đại tá Tùng bị mất, và con cháu chúng ta sẽ chỉ nhìn thấy một bản thảo được ai đó viết lại? Sau cuộc hội ý với cấp trên, sĩ quan tuyên huấn quân đoàn đã không đồng ý cho phóng viên sao chụp, ghi hình tư liệu này. BÙI THANH Đại tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò. Họ vây quanh ông ta trong lúc phía bên ngoài vẫn còn nghe những tiếng nổ. Những người lính giải phóng đã thể hiện sự vui mừng không kìm nén được. Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”. Đó là số mệnh của những người dân VN: người em của tổng thống là một tướng lĩnh trong quân đội miền Bắc VN và trong 20 năm anh em ruột thịt ở hai bên chiến tuyến (TS sẽ trở lại câu chuyện này trong một hồ sơ sắp tới). Đại úy Thệ im lặng. Tất cả mọi người bỗng nhiên im lặng. Rồi một vài người lính giải phóng nói chuyện với tôi bằng tiếng… Nga. Họ trông thấy phù hiệu “Báo chí Đức” trên áo sơmi của tôi và tưởng tôi là nhà báo Đông Đức. Họ đã nói chuyện với tôi về Các Mác. Bạn tôi là Hà Huy Đỉnh đã giải thích cho họ rằng tôi là nhà báo Tây Đức. Mặt họ sầm xuống, tỏ ra nghi ngờ và e dè hơn. Cuối cùng mọi người đã sẵn sàng, nhưng không ai trong số người này biết sử dụng máy ghi âm. Chính ủy Tùng hướng dẫn rất rõ ràng cho tôi những việc tôi phải làm: ông Minh cần phải đọc lại bản tuyên bố vào máy ghi âm của tôi, việc này được lặp đi lặp lại ba lần. Lần đầu tiên ông Minh chần chừ vì được yêu cầu phải đọc là: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”, nhưng ông ấy chỉ muốn nói: “Tôi, đại tướng Dương Văn Minh...”. Họ tranh luận qua lại và cuối cùng đi đến thỏa thuận: không nhượng bộ ông Minh. Ông Minh phải nói: “Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống của chính quyền Sài Gòn”. Nhưng ông Minh không đọc được bản viết tay của chính ủy Tùng và nói sai nhiều lần. Tất cả mọi thứ lại phải được đọc lại từ đầu. Cuối cùng đã xong. Ông Minh kết thúc âm giọng chính xác: “...miền Nam Việt Nam”. Tôi cũng ghi âm lời phát biểu của ông Mẫu và ông chính ủy Tùng rồi chúng tôi đi vào phòng thu thanh. Tôi ngồi ngay trước micro và bật băng của ba bài phát biểu. Ông Minh ngồi bên tay trái tôi. Chính ủy Tùng, ông Mẫu đứng đằng sau chúng tôi. Kỹ thuật viên ngồi phía bên kia của kính ngăn yêu cầu bật máy lại, lần này để máy lại gần micro hơn và không quá to. Lúc này mọi sự đều tốt đẹp. Chính ủy Bùi Văn Tùng đã nói những gì với tôi mà tôi không hiểu. Hà Huy Đỉnh dịch lại. Tôi đã được ông cảm ơn về sự giúp đỡ của tôi và cho phép tôi chở ông về lại dinh Độc Lập trên chiếc xe jeep. Chúng tôi rời khỏi tòa nhà. Tôi ngồi sau tay lái và ông chính ủy ngồi ghế bên. Tôi không thể nổ máy chiếc xe. Lúc ấy ông chính ủy trở nên sốt ruột và chúng tôi đã đi sang một chiếc xe khác, nơi tôi lại ngồi băng ghế sau. Chúng tôi lại đi qua những con đường của VN. Lúc ấy khoảng 2g chiều, những người lính của Mặt trận Giải phóng đã đứng gác tại tất cả các ngã tư và trên những con đường đã rất đông người. Chúng tôi đã đi mà không có bảo vệ. Sài Gòn đã chắc chắn ở trong tay của chính quyền cách mạng, không gặp sự kháng cự nào. Tại dinh Độc Lập, tôi nhảy ra khỏi xe. Trên khuôn mặt bình thản của chính ủy Bùi Văn Tùng giấu một nụ cười. Rồi ông nói với tôi bằng một câu tiếng Đức mà ông biết: “Danke” (cảm ơn). Hai ngày sau, ông Minh được tự do trở về nhà với vườn hoa phong lan của mình. Ong Tung da thao van kien dau hangTrong ảnh, Borries Gallasch ngồi cạnh ông Dương Văn Minh để chuẩn bị ghi âm lời tuyên bố đầu hàng. Đây là bức ảnh duy nhất ghi lại thời khắc lịch sử ở Đài phát thanh Sài Gòn ngày 30-4-1975. Tác giả bức ảnh này là nhà báo Kỳ Nhân - một nhà báo đối lập trước năm 1975, lúc đó đang cộng tác cho Hãng tin AP (Mỹ). Khi nhìn thấy bức ảnh duy nhất này, cả George Esper và Peter Arnett (phóng viên chiến trường nổi tiếng, sau này làm cho CNN) đều thảng thốt: “Tấm ảnh này sẽ đi vào lịch sử!”. Bức ảnh này không còn phim gốc. Nhà báo Kỳ Nhân đã giao nó cho AP. Sau đó ít ngày, George Esper và Peter Arnett đã “tặng” lại cho đại diện quân giải phóng là trung úy Phùng Bá Đam (nay là đại tá). Trước khi đi học ở Liên Xô, ông Đam có bàn giao phim và ảnh lại cho cơ quan là Học viện Quân sự, rồi sau đó... lạc mất luôn! B.T.http://vietbao.vn/Phong-su/Ong-Tung-da-thao-van-kien-dau-hang/40199063/263/

10 nhận xét:

TranKienQuoc nói...

Ông Thệ có là trung tướng nhưng không giấu được nỗi nhục này. Con người bất nhân, tranh công đổ tội, thật nhục!

HữuThành.Nguyễn nói...

Theo như tôi biết ông Thệ nay đã về hưu và ông ta bị CCB coi như không có.

TK8 nói...

Có thể ông Thệ k xứng đáng trung tướng, nhưng ông cũng xông lửa đạn, cũng đem tính mạng ra chiến đấu...
Mấy ông "múa rối nghị trường" mới nhục: thấy 1 đám đông lớ ngớ, ông nhảy ra cầm cờ phất lăng nhăng, bể tuồng thì ông biến hóa che đậy...

HữuThành.Nguyễn nói...

Tk8 có nói ngược không đấy?
Ông Thệ đã từng chiến đấu, có lẽ cũng xứng đáng là tướng chỉ huy như đã từng.
Có điều những người từng trải trận chiến từng cùng sống chết không phục ông ở chỗ nhận nhầm "di tích lịch sử".
Không có chuyện "viết lời đầu hàng" thì ông ta cũng đã có chỗ trong lịch sử. Bằng việc nhận nhầm, ông ta rời ra khỏi lịch sử theo một cách đáng tiếc.

TK8 nói...

- Xét đề nghị của đc HT
- Căn cứ biên bản thảo luận của Bạn Trỗi

QUYẾT ĐỊNH:

+ Tước Đảng tịch của đc Thệ
+ Giữ nguyên quân hàm trung tướng.
+ Hội CCB bo xì nghỉ chơi với Thệ là trái luật, nhưng cũng k có luật nào buộc các kụ phải chơi với Thệ.

Lê Tự Thành nói...

Mình thật sự không nhớ chính xác biết thông tin ông Thệ viết lời tuyên bố đầu hàng cho DVM vào lúc nào, nhưng cũng nhớ là trong thời gian công tác trong đó (1975 - 1979). Nghĩa là có báo ban đầu đã đưa thông tin này.
Sự kiện có ông Tùng thì hôm nay TL đưa lên mới biết. Nhưng lịch sử mà dựa vào trí nhớ thì thật khó tìm ra. Nhưng nếu nhà báo Đức đã viết từ 1975 thì mình cho đó là tài liệu đúng. Ông ta không có lý do gì để viết sai đi một sự thật mà mình được chứng kiến cả.
TT

Nhat Trung K5 nói...

Cái quan trọng là nhà báo Tây Đức viết từ năm 1975 nên chắc là chính xác. Sau này tranh cãi để làm sáng tỏ thôi. Theo tôi nghĩ chắc lúc đó có mặt ông Thệ ở Đài phát thanh nên cũng "nói leo" vào vài câu nên sau này mới nhận là mình tham gia vào thảo văn bản cho DVM đọc.

TK8 nói...

- ô Thệ nói láo được cũng phải nhờ có 1 TẬP THỂ DỐI TRÁ.
- Tập Thể dối trá được cũng phải nhờ có 1 LOGIC DỐI TRÁ đã nhiều lần thực hiện thành công.
- Để nhiều lần thực hiện thành công thì phải BỊT MIỆNG NGƯỜI KHÁC.

* Cháu thấy ở VN tỉ lệ số người dối trá cao bất bình thường các bác ợ - thuốc đặc trị bọn này là CÔNG KHAI.

* Nhổ 1 cái nấm độc để bảo vệ khu rừng ẩm mốc thì sẽ còn nhiều nấm khác.

Cháu chạy đây..........

Huỳnh Xuân Thủy K4 nói...

Thứ 1:Phải "Công khai xin lỗi Trung tá Tùng!"(vì Thệ lúc đó mang cấp hàm Đại úy) Thứ 2:Không đáng mặt Tướng chi hết(Làm tướng mà chỉ biết "Dối TRÊN gạt DƯỚI sao đáng Anh hùng?) Thứ 3:CCB QK1 nên hỏi ý kiến của đa số rồi QĐ Tướng Thệ có xứng đáng là CCB?

TK8 nói...

Bẩm kụ HXTK4, cháu nghe lời tâm huyết của kụ cũng xúc động đậy nhưng chủ yếu là MẦN RÕ TRẮNG ĐEN, BẢO VỆ SỰ THẬT CÔNG LÝ, hổng có cái mục nào oánh zô kinh tế tay Thệ, rứa thì tụi đời sau nó lừa đảo nữa - nó dek có liêm sỉ thì kụ oánh Danh Dự nó cũng như không.
Vậy Nguyên Lão Viện các kụ cứ bàn bạc cho rốt ráo rồi trình lên cháu mần lại cái QUYẾT ĐỊNH.

Lúc này lo mần cái nhân sự Đại Hội Đ cháu hơi bận các kụ ợ.